QUỐC HỘI |
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM |
Số: 52/2014/QH13 |
Hà Nội, ngày 19 tháng 06 năm 2014 |
Căn cứ Hiến pháp nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam;
Quốc hội ban hành Luật
hôn nhân và gia đình.
Luật này quy định chế độ hôn nhân và
gia đình; chuẩn mực pháp lý cho cách ứng xử giữa các thành viên gia đình; trách
nhiệm của cá nhân, tổ chức, Nhà nước và xã hội trong việc xây dựng, củng cố chế
độ hôn nhân và gia đình.
Điều 2. Những
nguyên tắc cơ bản của chế độ hôn nhân và gia đình
1. Hôn nhân tự nguyện, tiến bộ, một
vợ một chồng, vợ chồng bình đẳng.
2. Hôn nhân giữa công dân Việt Nam
thuộc các dân tộc, tôn giáo, giữa người theo tôn giáo với người không theo tôn
giáo, giữa người có tín ngưỡng với người không có tín ngưỡng, giữa công dân
Việt Nam với người nước ngoài được tôn trọng và được pháp luật bảo vệ.
3. Xây dựng gia đình ấm no, tiến bộ,
hạnh phúc; các thành viên gia đình có nghĩa vụ tôn trọng, quan tâm, chăm sóc,
giúp đỡ nhau; không phân biệt đối xử giữa các con.
4. Nhà nước, xã hội và gia đình có
trách nhiệm bảo vệ, hỗ trợ trẻ em, người cao tuổi, người khuyết tật thực hiện
các quyền về hôn nhân và gia đình; giúp đỡ các bà mẹ thực hiện tốt chức năng
cao quý của người mẹ; thực hiện kế hoạch hóa gia đình.
5. Kế thừa, phát huy truyền thống văn
hóa, đạo đức tốt đẹp của dân tộc Việt Nam về hôn nhân và gia đình.
Trong Luật này, các từ ngữ dưới đây
được hiểu như sau:
1. Hôn nhân là quan hệ giữa vợ
và chồng sau khi kết hôn.
2. Gia đình là tập hợp
những người gắn bó với nhau do hôn nhân, quan hệ huyết thống hoặc quan hệ nuôi
dưỡng, làm phát sinh các quyền và nghĩa vụ giữa họ với nhau theo quy định của
Luật này.
3. Chế độ hôn nhân và gia đình
là toàn bộ những quy định của pháp luật về kết hôn, ly hôn; quyền và nghĩa vụ
giữa vợ và chồng, giữa cha mẹ và con, giữa các thành viên khác trong gia đình;
cấp dưỡng; xác định cha, mẹ, con; quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước
ngoài và những vấn đề khác liên quan đến hôn nhân và gia đình.
4. Tập quán về hôn nhân và gia
đình là quy tắc xử sự có nội dung rõ ràng về quyền, nghĩa vụ của các bên
trong quan hệ hôn nhân và gia đình, được lặp đi, lặp lại trong một thời gian
dài và được thừa nhận rộng rãi trong một vùng, miền hoặc cộng đồng.
5. Kết hôn là việc nam và nữ
xác lập quan hệ vợ chồng với nhau theo quy định của Luật này về điều kiện kết
hôn và đăng ký kết hôn.
6. Kết hôn trái pháp luật là
việc nam, nữ đã đăng ký kết hôn tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền nhưng một
bên hoặc cả hai bên vi phạm điều kiện kết hôn theo quy định tại Điều 8 của Luật
này.
7. Chung sống như vợ chồng là
việc nam, nữ tổ chức cuộc sống chung và coi nhau là vợ chồng.
8. Tảo hôn là việc lấy vợ, lấy
chồng khi một bên hoặc cả hai bên chưa đủ tuổi kết hôn theo quy định tại điểm a
khoản 1 Điều 8 của Luật này.
9. Cưỡng ép kết hôn, ly hôn là
việc đe dọa, uy hiếp tinh thần, hành hạ, ngược đãi, yêu sách của cải hoặc hành
vi khác để buộc người khác phải kết hôn hoặc ly hôn trái với ý muốn của họ.
10. Cản trở kết hôn, ly hôn là
việc đe dọa, uy hiếp tinh thần, hành hạ, ngược đãi, yêu sách của cải hoặc hành
vi khác để ngăn cản việc kết hôn của người có đủ điều kiện kết hôn theo quy
định của Luật này hoặc buộc người khác phải duy trì quan hệ hôn nhân trái với ý
muốn của họ.
11. Kết hôn giả tạo là việc
lợi dụng kết
hôn để xuất cảnh, nhập cảnh, cư trú, nhập quốc tịch Việt Nam, quốc tịch nước
ngoài; hưởng chế độ ưu đãi của Nhà nước hoặc để đạt được mục đích khác mà không
nhằm mục đích xây dựng gia đình.
12. Yêu sách của cải trong kết hôn
là việc đòi hỏi về vật chất một cách quá đáng và coi đó là điều kiện để kết hôn
nhằm cản trở việc kết hôn tự nguyện của nam, nữ.
13. Thời kỳ hôn nhân là khoảng
thời gian tồn tại quan hệ vợ chồng, được tính từ ngày đăng ký kết hôn đến ngày
chấm dứt hôn nhân.
14. Ly hôn là việc chấm dứt quan
hệ vợ chồng theo bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án.
15. Ly hôn giả tạo là việc lợi
dụng ly hôn để trốn tránh nghĩa vụ tài sản, vi phạm chính sách, pháp luật về
dân số hoặc để đạt được mục đích khác mà không nhằm mục đích chấm dứt hôn nhân.
16. Thành viên gia đình bao
gồm vợ, chồng; cha mẹ đẻ, cha mẹ nuôi, cha dượng, mẹ kế, cha mẹ vợ, cha mẹ
chồng; con đẻ, con nuôi, con riêng của vợ hoặc chồng, con dâu, con rể; anh,
chị, em cùng cha mẹ, anh, chị, em cùng cha khác mẹ, anh, chị, em cùng mẹ khác
cha, anh rể, em rể, chị dâu, em dâu của người cùng cha mẹ hoặc cùng cha khác
mẹ, cùng mẹ khác cha; ông bà nội, ông bà ngoại; cháu nội, cháu ngoại; cô, dì,
chú, cậu, bác ruột và cháu ruột.
17. Những người cùng dòng máu về
trực hệ là những người có quan hệ huyết thống, trong đó, người này sinh ra
người kia kế tiếp nhau.
18. Những người có họ trong phạm
vi ba đời là những người cùng một gốc sinh ra gồm cha mẹ là đời thứ nhất;
anh, chị, em cùng cha mẹ, cùng cha khác mẹ, cùng mẹ khác cha là đời thứ hai; anh,
chị, em con chú, con bác, con cô, con cậu, con dì là đời thứ ba.
19. Người thân thích là người
có quan hệ hôn nhân, nuôi dưỡng, người có cùng dòng máu về trực hệ và người có
họ trong phạm vi ba đời.
20. Nhu cầu thiết yếu là nhu
cầu sinh hoạt thông thường về ăn, mặc, ở, học tập, khám bệnh, chữa bệnh và nhu
cầu sinh hoạt thông thường khác không thể thiếu cho cuộc sống của mỗi người,
mỗi gia đình.
21. Sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ
sinh sản là việc sinh con bằng kỹ thuật thụ tinh nhân tạo hoặc thụ tinh trong
ống nghiệm.
22. Mang thai hộ vì mục đích nhân
đạo là việc một người phụ nữ tự nguyện, không vì mục đích thương mại giúp
mang thai cho cặp vợ chồng mà người vợ không thể mang thai và sinh con ngay cả
khi áp
dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản, bằng việc lấy noãn của người vợ và tinh
trùng của người chồng để thụ tinh trong ống nghiệm, sau đó cấy vào tử cung của
người phụ nữ tự nguyện mang thai để người này mang thai và sinh con.
23. Mang thai hộ vì mục đích
thương mại là việc một người phụ nữ mang thai cho người khác bằng việc áp
dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản để được hưởng lợi về kinh tế hoặc lợi ích khác.
24. Cấp dưỡng là việc một
người có nghĩa vụ đóng góp tiền hoặc tài sản khác để đáp ứng nhu cầu thiết yếu
của người không sống chung với mình mà có quan hệ hôn nhân, huyết thống hoặc
nuôi dưỡng trong trường hợp người đó là người chưa thành niên, người đã thành
niên mà không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình hoặc
người gặp khó khăn, túng thiếu theo quy định của Luật này.
25. Quan hệ hôn nhân và gia đình
có yếu tố nước ngoài là quan hệ hôn nhân và gia đình mà ít nhất một bên
tham gia là người nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài; quan hệ hôn
nhân và gia đình giữa các bên tham gia là công dân Việt Nam nhưng căn cứ để xác
lập, thay đổi, chấm dứt quan hệ đó theo pháp luật nước ngoài, phát sinh tại
nước ngoài hoặc tài sản liên quan đến quan hệ đó ở nước ngoài.
Điều 4. Trách
nhiệm của Nhà nước và xã hội đối với hôn nhân và gia đình
1. Nhà nước có chính sách, biện pháp
bảo hộ hôn nhân và gia đình, tạo điều kiện để nam, nữ xác lập hôn nhân tự
nguyện, tiến bộ, một vợ một chồng, vợ chồng bình đẳng; xây dựng gia đình ấm no,
tiến bộ, hạnh phúc và thực hiện đầy đủ chức năng của mình; tăng cường tuyên
truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về hôn nhân và gia đình; vận động nhân dân
xóa bỏ phong tục, tập quán lạc hậu về hôn nhân và gia đình, phát huy truyền
thống, phong tục, tập quán tốt đẹp thể hiện bản sắc của mỗi dân tộc.
2. Chính phủ thống nhất quản lý nhà
nước về hôn nhân và gia đình. Các bộ, cơ quan ngang bộ thực hiện quản lý nhà
nước về hôn nhân và gia đình theo sự phân công của Chính phủ. Ủy ban
nhân dân các cấp và các cơ quan khác thực hiện quản lý nhà nước về hôn nhân và
gia đình theo quy định của pháp luật.
3. Cơ quan, tổ chức có trách nhiệm
giáo dục, vận động cán bộ, công chức, viên chức, người lao động, các thành viên
của mình và mọi công dân xây dựng gia đình văn hóa; kịp thời hòa giải mâu thuẫn
trong gia đình, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các thành viên gia đình. Nhà
trường phối hợp với gia đình trong việc giáo dục, tuyên truyền,
phổ biến pháp luật về hôn nhân và gia đình cho thế hệ trẻ.
Điều 5. Bảo vệ chế
độ hôn nhân và gia đình
1. Quan hệ hôn nhân và gia đình được
xác lập, thực hiện theo quy định của Luật này được tôn trọng và được pháp luật
bảo vệ.
2. Cấm các hành vi sau đây:
a) Kết hôn giả tạo, ly hôn giả tạo;
b) Tảo hôn, cưỡng ép kết hôn, lừa dối
kết hôn, cản trở kết hôn;
c) Người đang có vợ, có chồng mà kết
hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác hoặc chưa có vợ, chưa
có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người đang có chồng,
có vợ;
d) Kết hôn hoặc chung sống như vợ
chồng giữa những người cùng dòng máu về trực hệ; giữa những người có họ trong
phạm vi ba đời; giữa cha, mẹ nuôi với con nuôi; giữa người đã từng là cha, mẹ
nuôi với con nuôi, cha chồng với con dâu, mẹ vợ với con rể, cha dượng với con
riêng của vợ, mẹ kế với con riêng của chồng;
đ) Yêu sách của cải trong kết hôn;
e) Cưỡng ép ly hôn, lừa dối ly hôn,
cản trở ly hôn;
g) Thực hiện sinh con bằng kỹ thuật
hỗ trợ sinh sản vì mục đích thương mại, mang thai hộ vì mục đích thương mại,
lựa chọn giới tính thai nhi, sinh sản vô tính;
h) Bạo lực gia đình;
i) Lợi dụng việc thực hiện quyền về
hôn nhân và gia đình để mua bán người, bóc lột sức lao động, xâm phạm tình dục
hoặc có hành vi khác nhằm mục đích trục lợi.
3. Mọi hành vi vi phạm pháp luật về
hôn nhân và gia đình phải được xử lý nghiêm minh, đúng pháp luật.
Cơ quan, tổ chức, cá nhân có quyền
yêu cầu Tòa án, cơ quan khác có thẩm quyền áp dụng biện pháp kịp thời ngăn chặn
và xử lý người có hành vi vi phạm pháp luật về hôn nhân và gia đình.
4. Danh dự, nhân phẩm, uy tín, bí mật
đời tư và các quyền riêng tư khác của các bên được tôn trọng, bảo vệ trong quá
trình giải quyết vụ việc về hôn nhân và gia đình.
Điều 6. Áp dụng
quy định của Bộ luật dân sự và các luật khác có liên quan
Các quy định của Bộ luật dân sự và
các luật khác có liên quan đến quan hệ hôn nhân và gia đình được áp dụng đối
với quan hệ hôn nhân và gia đình trong trường hợp Luật này không quy định.
Điều 7. Áp dụng
tập quán về hôn nhân và gia đình
1. Trong trường hợp pháp luật không
quy định và các bên không có thỏa thuận thì tập quán tốt đẹp thể hiện bản sắc
của mỗi dân tộc, không trái với nguyên tắc quy định tại Điều 2 và không vi
phạm điều cấm của Luật này được áp dụng.
2. Chính phủ quy định chi tiết khoản
1 Điều này.
1. Nam, nữ kết hôn với nhau phải tuân
theo các điều kiện sau đây:
a) Nam từ đủ 20 tuổi trở lên, nữ từ
đủ 18 tuổi trở lên;
b) Việc kết hôn do nam và nữ tự
nguyện quyết định;
c) Không bị mất năng lực hành vi dân
sự;
d) Việc kết hôn không thuộc một trong
các trường hợp cấm kết hôn theo quy định tại các điểm a, b, c và d khoản 2 Điều
5 của Luật này.
2. Nhà nước không thừa nhận hôn nhân
giữa những người cùng giới tính.
1. Việc kết hôn phải được đăng ký và
do cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện theo quy định của Luật này và pháp
luật về hộ tịch.
Việc kết hôn không được đăng ký
theo quy định tại khoản này thì không có giá trị pháp lý.
2. Vợ chồng đã ly hôn muốn xác lập
lại quan hệ vợ chồng thì phải đăng ký kết hôn.
Điều 10. Người có
quyền yêu cầu hủy việc kết hôn trái pháp luật
1. Người bị cưỡng ép kết hôn, bị lừa
dối kết hôn, theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự, có quyền tự mình
yêu cầu hoặc đề nghị cá nhân, tổ chức quy định tại khoản 2 Điều này yêu cầu Tòa
án hủy việc kết hôn trái pháp luật do việc kết hôn vi phạm quy định tại điểm b
khoản 1 Điều 8 của Luật này.
2. Cá nhân, cơ quan, tổ chức sau đây,
theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự, có quyền yêu cầu Tòa án hủy việc
kết hôn trái pháp luật do việc kết hôn vi phạm quy định tại các điểm a, c và d
khoản 1 Điều 8 của Luật này:
a) Vợ, chồng của người
đang có vợ, có chồng mà kết hôn với người khác; cha, mẹ, con, người
giám hộ hoặc người đại diện theo pháp luật khác của người kết hôn trái pháp
luật;
b) Cơ quan quản lý nhà nước về gia
đình;
c) Cơ quan quản lý nhà nước
về
trẻ em;
d) Hội liên hiệp phụ nữ.
3. Cá nhân, cơ quan, tổ chức khác khi
phát hiện việc kết hôn trái pháp luật thì có quyền đề nghị cơ quan, tổ chức quy
định tại các điểm b, c và d khoản 2 Điều này yêu cầu Tòa án hủy việc kết hôn
trái pháp luật.
Điều 11. Xử lý
việc kết hôn trái pháp luật
1. Xử lý việc kết hôn trái pháp luật
được Tòa án thực hiện theo quy định tại Luật này và pháp luật về tố tụng dân
sự.
2. Trong trường hợp tại
thời điểm Tòa án giải quyết yêu cầu hủy việc kết hôn trái pháp luật mà cả hai
bên kết hôn đã có đủ các điều kiện kết hôn theo quy định tại Điều 8 của Luật
này và hai bên yêu cầu công nhận quan hệ hôn nhân thì Tòa án công nhận quan hệ
hôn nhân đó. Trong trường hợp này, quan hệ hôn nhân được xác lập
từ thời điểm các bên đủ điều kiện kết hôn theo quy định của Luật này.
3. Quyết định của Tòa án về việc hủy kết
hôn trái pháp luật hoặc công nhận quan hệ hôn nhân phải được gửi cho cơ quan đã
thực hiện việc đăng ký kết hôn để ghi vào sổ hộ tịch; hai bên kết hôn trái pháp
luật; cá nhân, cơ quan, tổ chức liên quan theo quy định của pháp luật về tố tụng
dân sự.
4. Tòa án nhân dân tối cao chủ trì phối
hợp với Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Bộ Tư pháp hướng dẫn Điều này.
Điều 12. Hậu quả
pháp lý của việc hủy kết hôn trái pháp luật
1. Khi việc kết hôn trái pháp luật bị
hủy thì hai bên kết hôn phải chấm dứt quan hệ như vợ chồng.
2. Quyền, nghĩa vụ của cha, mẹ, con
được giải quyết theo quy định về quyền, nghĩa vụ của cha, mẹ, con khi ly hôn.
3. Quan hệ tài sản, nghĩa vụ và hợp
đồng giữa các bên được giải quyết theo quy định tại Điều 16 của Luật
này.
Điều 13. Xử lý
việc đăng ký kết hôn không đúng thẩm quyền
Trong trường hợp việc đăng ký kết hôn
không đúng thẩm quyền thì khi có yêu cầu, cơ quan nhà nước có thẩm quyền thu
hồi, hủy bỏ giấy chứng nhận kết hôn theo quy định của pháp luật về hộ tịch và
yêu cầu hai bên thực hiện lại việc đăng ký kết hôn tại cơ quan nhà nước có thẩm
quyền. Trong trường hợp này, quan hệ hôn nhân được xác lập từ ngày đăng ký kết
hôn trước.
1. Nam, nữ có đủ điều kiện kết hôn
theo quy định của Luật này chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký
kết hôn thì không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ giữa vợ và chồng. Quyền, nghĩa
vụ đối với con, tài sản, nghĩa vụ và hợp đồng giữa các bên được giải quyết theo
quy định tại Điều 15 và Điều 16 của Luật này.
2. Trong trường hợp nam, nữ
chung sống với nhau như vợ chồng theo quy định tại khoản 1 Điều này nhưng sau
đó thực hiện việc đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật thì quan hệ hôn
nhân được xác lập từ thời điểm đăng ký kết hôn.
Quyền, nghĩa vụ giữa nam, nữ chung
sống với nhau như vợ chồng và con được giải quyết theo quy định của Luật này về
quyền, nghĩa vụ của cha mẹ và con.
1. Quan hệ tài sản, nghĩa vụ và hợp
đồng của nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn được
giải quyết theo thỏa thuận giữa các bên; trong trường hợp không có thỏa thuận
thì giải quyết theo quy định của Bộ luật dân sự và các quy định khác của pháp
luật có liên quan.
2. Việc giải quyết quan hệ tài sản
phải bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của phụ nữ và con; công việc nội trợ
và công việc khác có liên quan để duy trì đời sống chung được coi như lao động
có thu nhập.
Mục 1: QUYỀN VÀ
NGHĨA VỤ VỀ NHÂN THÂN
Điều 17. Bình đẳng
về quyền, nghĩa vụ giữa vợ, chồng
Vợ, chồng bình đẳng với nhau, có
quyền, nghĩa vụ ngang nhau về mọi mặt trong gia đình, trong việc thực hiện các
quyền, nghĩa vụ của công dân được quy định trong Hiến pháp, Luật này và các
luật khác có liên quan.
Điều 18. Bảo vệ
quyền, nghĩa vụ về nhân thân của vợ, chồng
Quyền, nghĩa vụ về
nhân thân của vợ, chồng quy định tại Luật này, Bộ luật dân sự và các luật khác
có liên quan được tôn trọng và bảo vệ.
1. Vợ chồng có nghĩa vụ thương yêu,
chung thủy, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau; cùng nhau chia sẻ,
thực hiện các công việc trong gia đình.
2. Vợ chồng có nghĩa vụ sống chung
với nhau, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận khác hoặc do yêu cầu của nghề
nghiệp, công tác, học tập, tham gia các hoạt động chính trị, kinh tế, văn hóa,
xã hội và lý do chính đáng khác.
Điều 20. Lựa chọn
nơi cư trú của vợ chồng
Việc lựa chọn nơi cư trú của vợ chồng
do vợ chồng thỏa thuận, không bị ràng buộc bởi phong tục, tập quán, địa giới
hành chính.
Điều 21. Tôn trọng
danh dự, nhân phẩm, uy tín của vợ, chồng
Vợ, chồng có nghĩa vụ tôn trọng, giữ
gìn và bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín cho nhau.
Điều 22. Tôn trọng
quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của vợ, chồng
Vợ, chồng có nghĩa vụ tôn trọng quyền
tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhau.
Vợ, chồng có quyền, nghĩa vụ tạo điều
kiện, giúp đỡ nhau chọn nghề nghiệp; học tập, nâng cao trình độ văn hóa, chuyên
môn, nghiệp vụ; tham gia hoạt động chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội.
Mục 2: ĐẠI DIỆN
GIỮA VỢ VÀ CHỒNG
Điều 24. Căn cứ
xác lập đại diện giữa vợ và chồng
1. Việc đại diện giữa vợ và chồng
trong xác lập, thực hiện, chấm dứt giao dịch được xác định theo quy định của
Luật này, Bộ luật dân sự và các luật khác có liên quan.
2. Vợ, chồng có thể ủy quyền cho nhau
xác lập, thực hiện và chấm dứt giao dịch mà theo quy định của Luật này, Bộ luật
dân sự và các luật khác có liên quan phải có sự đồng ý của cả hai vợ chồng.
3. Vợ, chồng đại diện cho nhau khi
một bên mất năng lực hành vi dân sự mà bên kia có đủ điều kiện làm người giám
hộ hoặc khi một bên bị hạn chế năng lực hành vi dân sự mà bên kia được Tòa án
chỉ định làm người đại diện theo pháp luật cho người đó, trừ trường hợp theo
quy định của pháp luật thì người đó phải tự mình thực hiện quyền, nghĩa vụ có
liên quan.
Trong trường hợp một bên vợ, chồng
mất năng lực hành vi dân sự mà bên kia có yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn thì
căn cứ vào quy định về giám hộ trong Bộ luật dân sự, Tòa án chỉ định người khác
đại diện cho người bị mất năng lực hành vi dân sự để giải quyết việc ly hôn.
Điều 25. Đại diện
giữa vợ và chồng trong quan hệ kinh doanh
1. Trong trường hợp vợ, chồng kinh
doanh chung thì vợ, chồng trực tiếp tham gia quan hệ kinh doanh là người đại
diện hợp pháp của nhau trong quan hệ kinh doanh đó, trừ trường hợp trước khi
tham gia quan hệ kinh doanh, vợ chồng có thỏa thuận khác hoặc Luật này và các
luật liên quan có quy định khác.
2. Trong trường hợp vợ, chồng đưa tài
sản chung vào kinh doanh thì áp dụng quy định tại Điều 36 của Luật này.
1. Việc đại diện giữa vợ và chồng
trong việc xác lập, thực hiện và chấm dứt giao dịch liên quan đến tài sản chung
có giấy chứng nhận quyền sở hữu, giấy chứng nhận quyền sử dụng tài sản chỉ ghi
tên vợ hoặc chồng được thực hiện theo quy định tại Điều 24 và Điều 25 của Luật
này.
2. Trong trường hợp vợ hoặc chồng có
tên trên giấy chứng nhận quyền sở hữu, giấy chứng nhận quyền sử dụng tài sản tự
mình xác lập, thực hiện và chấm dứt giao dịch với người thứ ba trái với quy
định về đại diện giữa vợ và chồng của Luật này thì giao dịch đó vô hiệu, trừ
trường hợp theo quy định của pháp luật mà người thứ ba ngay tình được bảo vệ
quyền lợi.
Điều 27. Trách
nhiệm liên đới của vợ, chồng
1. Vợ, chồng chịu trách nhiệm liên
đới đối với giao dịch do một bên thực hiện quy định tại khoản 1 Điều 30 hoặc
giao dịch khác phù hợp với quy định về đại diện tại các điều 24, 25 và 26
của Luật này.
2. Vợ, chồng chịu trách nhiệm liên
đới về các nghĩa vụ quy định tại Điều 37 của Luật này.
Mục 3: CHẾ ĐỘ TÀI
SẢN CỦA VỢ CHỒNG
Điều 28. Áp dụng
chế độ tài sản của vợ chồng
1. Vợ chồng có quyền lựa chọn áp dụng
chế độ tài sản theo luật định hoặc chế độ tài sản theo thỏa thuận.
Chế độ tài sản của vợ chồng theo luật
định được thực hiện theo quy định tại các điều từ Điều 33 đến Điều 46 và từ
Điều 59 đến Điều 64 của Luật này.
Chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa
thuận được thực hiện theo quy định tại các điều 47, 48, 49, 50 và 59 của Luật
này.
2. Các quy định tại các điều 29, 30,
31 và 32 của Luật này được áp dụng không phụ thuộc vào chế độ tài sản mà vợ
chồng đã lựa chọn.
3. Chính phủ quy định chi tiết về chế
độ tài sản của vợ chồng.
Điều 29. Nguyên
tắc chung về chế độ tài sản của vợ chồng
1. Vợ, chồng bình đẳng với nhau về
quyền, nghĩa vụ trong việc tạo lập, chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản
chung; không phân biệt giữa lao động trong gia đình và lao động có thu
nhập.
2. Vợ, chồng có nghĩa vụ bảo đảm điều
kiện để đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình.
3. Việc thực hiện quyền, nghĩa vụ về
tài sản của vợ chồng mà xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp của vợ, chồng, gia
đình và của người khác thì phải bồi thường.
Điều 30. Quyền,
nghĩa vụ của vợ, chồng trong việc đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình
1. Vợ, chồng có quyền, nghĩa vụ thực
hiện giao dịch nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình.
2. Trong trường hợp vợ chồng không có
tài sản chung hoặc tài sản chung không đủ để đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia
đình thì vợ, chồng có nghĩa vụ đóng góp tài sản riêng theo khả năng kinh tế của
mỗi bên.
Điều 31. Giao dịch
liên quan đến nhà là nơi ở duy nhất của vợ chồng
Việc xác lập, thực hiện, chấm dứt các
giao dịch liên quan đến nhà là nơi ở duy nhất của vợ chồng phải có sự thỏa
thuận của vợ chồng. Trong trường hợp nhà ở thuộc sở hữu riêng của vợ hoặc
chồng thì chủ sở hữu có quyền xác lập, thực hiện, chấm dứt giao dịch liên quan
đến tài sản đó nhưng phải bảo đảm chỗ ở cho vợ chồng.
1. Trong giao dịch với người thứ ba
ngay tình thì vợ, chồng là người đứng tên tài khoản ngân hàng, tài khoản chứng
khoán
được coi là người có quyền xác lập, thực hiện giao dịch liên quan đến tài sản
đó.
2. Trong giao dịch với người thứ ba
ngay tình thì vợ, chồng đang chiếm hữu động sản mà theo quy định của pháp luật
không phải đăng ký quyền sở hữu được coi là người có quyền xác lập, thực hiện
giao dịch liên quan đến tài sản đó trong trường hợp Bộ luật dân sự có quy định
về việc bảo vệ người thứ ba ngay tình.
Điều 33. Tài sản
chung của vợ chồng
1. Tài sản chung của vợ chồng gồm tài
sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh,
hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng và thu nhập hợp pháp khác trong
thời kỳ hôn nhân, trừ trường hợp được quy định tại khoản 1 Điều 40 của Luật
này; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và tài sản
khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung.
Quyền sử dụng đất mà vợ, chồng có
được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng, trừ trường hợp vợ hoặc
chồng được thừa kế riêng, được tặng cho riêng hoặc có được thông qua giao dịch
bằng tài sản riêng.
2. Tài sản chung của vợ chồng thuộc
sở hữu chung hợp nhất, được dùng để bảo đảm nhu cầu của gia đình, thực hiện
nghĩa vụ chung của vợ chồng.
3. Trong trường hợp không có căn cứ
để chứng minh tài sản mà vợ, chồng đang có tranh chấp là tài sản riêng của mỗi
bên thì tài sản đó được coi là tài sản chung.
Điều 34. Đăng ký
quyền sở hữu, quyền sử dụng đối với tài sản chung
1. Trong trường hợp tài sản thuộc sở
hữu chung của vợ chồng mà pháp luật quy định phải đăng ký quyền sở hữu,
quyền sử dụng thì giấy chứng nhận quyền sở hữu, giấy chứng nhận quyền sử dụng
phải ghi tên cả hai vợ chồng, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận khác.
2. Trong trường hợp giấy chứng nhận
quyền sở hữu, giấy chứng nhận quyền sử dụng tài sản chỉ ghi tên một bên vợ hoặc
chồng thì giao dịch liên quan đến tài sản này được thực hiện theo quy định tại
Điều 26 của Luật này; nếu có tranh chấp về tài sản đó thì được giải quyết theo
quy định tại khoản 3 Điều 33 của Luật này.
Điều 35. Chiếm
hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung
1. Việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt
tài sản chung do vợ chồng thỏa thuận.
2. Việc định đoạt tài sản chung phải
có sự thỏa thuận bằng văn bản của vợ chồng trong những trường hợp sau đây:
a) Bất động sản;
b) Động sản mà theo quy định của pháp
luật phải đăng ký quyền sở hữu;
c) Tài sản đang là nguồn tạo ra thu
nhập chủ yếu của gia đình.
Điều 36. Tài sản
chung được đưa vào kinh doanh
Trong trường hợp vợ chồng có thỏa
thuận về việc một bên đưa tài sản chung vào kinh doanh thì người này có quyền
tự mình thực hiện giao dịch liên quan đến tài sản chung đó. Thỏa thuận này phải
lập thành văn bản.
Điều 37. Nghĩa vụ
chung về tài sản của vợ chồng
Vợ chồng có các nghĩa vụ chung về tài
sản sau đây:
1. Nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch do
vợ chồng cùng thỏa thuận xác lập, nghĩa vụ bồi thường thiệt hại mà theo quy
định của pháp luật vợ chồng cùng phải chịu trách nhiệm;
2. Nghĩa vụ do vợ hoặc chồng thực
hiện nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình;
3. Nghĩa vụ phát sinh từ việc chiếm
hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung;
4. Nghĩa vụ phát sinh từ việc sử dụng
tài sản riêng để duy trì, phát triển khối tài sản chung hoặc để tạo ra nguồn
thu nhập chủ yếu của gia đình;
5. Nghĩa vụ bồi thường thiệt hại do
con gây ra mà theo quy định của Bộ luật dân sự thì cha mẹ phải bồi thường;
6. Nghĩa vụ khác theo quy định của
các luật có liên quan.
Điều 38. Chia tài
sản chung trong thời kỳ hôn nhân
1. Trong thời kỳ hôn nhân, vợ chồng
có quyền thỏa thuận chia một phần hoặc toàn bộ tài sản chung, trừ trường hợp
quy định tại Điều 42 của Luật này; nếu không thỏa thuận được thì có quyền yêu
cầu Tòa án giải quyết.
2. Thỏa thuận về việc chia tài sản
chung phải lập thành văn bản. Văn bản này được công chứng theo yêu cầu của vợ
chồng hoặc theo quy định của pháp luật.
3. Trong trường hợp vợ, chồng có yêu
cầu thì Tòa án giải quyết việc chia tài sản chung của vợ chồng theo quy định
tại Điều 59 của Luật này.
Điều 39. Thời điểm
có hiệu lực của việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân
1. Thời điểm có hiệu lực của việc
chia tài sản chung của vợ chồng là thời điểm do vợ chồng thỏa thuận và được ghi
trong văn bản; nếu trong văn bản không xác định thời điểm có hiệu lực thì thời điểm
có hiệu lực được tính từ ngày lập văn bản.
2. Trong trường hợp tài sản
được chia mà theo quy định của pháp luật, giao dịch liên quan đến tài sản đó
phải tuân theo hình thức nhất định thì việc chia tài sản chung của vợ chồng có
hiệu lực từ thời điểm việc thỏa thuận tuân thủ hình thức mà pháp luật quy định.
3. Trong trường hợp Tòa án
chia tài sản chung của vợ chồng thì việc chia tài sản chung có hiệu lực kể từ
ngày bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật.
4. Quyền, nghĩa vụ về tài sản giữa
vợ, chồng với người thứ ba phát sinh trước thời điểm việc chia tài sản chung có
hiệu lực vẫn có giá trị pháp lý, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác.
Điều 40. Hậu quả
của việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân
1. Trong trường hợp chia
tài sản chung của vợ chồng thì phần tài sản được chia, hoa lợi, lợi tức phát
sinh từ tài sản riêng của mỗi bên sau khi chia tài sản chung là tài sản riêng
của vợ, chồng, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận khác. Phần tài sản còn lại
không chia vẫn là tài sản chung của vợ chồng.
2. Thỏa thuận của vợ chồng quy định
tại khoản 1 Điều này không làm thay đổi quyền, nghĩa vụ về tài sản được xác lập
trước đó giữa vợ, chồng với người thứ ba.
Điều 41. Chấm dứt
hiệu lực của việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân
1. Sau khi chia tài sản chung trong
thời kỳ hôn nhân, vợ chồng có quyền thỏa thuận chấm dứt hiệu lực của việc chia
tài sản chung. Hình thức của thỏa thuận được thực hiện theo quy định tại khoản
2 Điều 38 của Luật này.
2. Kể từ ngày thỏa thuận của vợ chồng
quy định tại khoản 1 Điều này có hiệu lực thì việc xác định tài sản chung, tài
sản riêng của vợ chồng được thực hiện theo quy định tại Điều 33 và Điều 43 của
Luật này. Phần tài sản mà vợ, chồng đã được chia vẫn thuộc sở hữu riêng của vợ,
chồng, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận khác.
3. Quyền, nghĩa vụ về tài sản phát
sinh trước thời điểm chấm dứt hiệu lực của việc chia tài sản chung vẫn có hiệu
lực, trừ trường
hợp các bên có thỏa thuận khác.
4. Trong trường hợp việc chia tài sản
chung trong thời kỳ hôn nhân được thực hiện theo bản án, quyết định có hiệu lực
của Tòa án thì thỏa thuận chấm dứt hiệu lực của việc chia tài sản chung phải
được Tòa án công nhận.
Điều 42. Chia tài
sản chung trong thời kỳ hôn nhân bị vô hiệu
Việc chia tài sản chung trong thời kỳ
hôn nhân bị vô hiệu khi thuộc một trong các trường hợp sau đây:
1. Ảnh hưởng nghiêm trọng đến lợi ích
của gia đình; quyền, lợi ích hợp pháp của con chưa thành niên, con đã thành
niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có
tài sản để tự nuôi mình;
2. Nhằm trốn tránh thực hiện các
nghĩa vụ sau đây:
a) Nghĩa vụ nuôi dưỡng, cấp dưỡng;
b) Nghĩa vụ bồi thường thiệt hại;
c) Nghĩa vụ thanh toán khi bị Tòa án
tuyên bố phá sản;
d) Nghĩa vụ trả nợ cho cá nhân, tổ
chức;
đ) Nghĩa vụ nộp thuế hoặc nghĩa vụ
tài chính khác đối với Nhà nước;
e) Nghĩa vụ khác về tài sản theo quy
định của Luật này, Bộ luật dân sự và quy định khác của pháp luật có liên quan.
Điều 43. Tài sản
riêng của vợ, chồng
1. Tài sản riêng của vợ, chồng gồm
tài sản mà mỗi người có trước khi kết hôn; tài sản được thừa kế riêng, được
tặng cho riêng trong thời kỳ hôn nhân; tài sản được chia riêng cho vợ, chồng
theo quy định tại các điều 38, 39 và 40 của Luật này; tài sản phục vụ nhu cầu
thiết yếu của vợ, chồng và tài sản khác mà theo quy định của pháp luật thuộc sở
hữu riêng của vợ, chồng.
2. Tài sản được hình thành từ tài sản
riêng của vợ, chồng cũng là tài sản riêng của vợ, chồng. Hoa lợi, lợi tức phát
sinh từ tài sản riêng trong thời kỳ hôn nhân được thực hiện theo quy định tại
khoản 1 Điều 33 và khoản 1 Điều 40 của Luật này.
Điều 44. Chiếm
hữu, sử dụng, định đoạt tài sản riêng
1. Vợ, chồng có quyền chiếm hữu, sử
dụng, định đoạt tài sản riêng của mình; nhập hoặc không nhập tài sản riêng vào
tài sản chung.
2. Trong trường hợp vợ hoặc
chồng không thể tự mình quản lý tài sản riêng và cũng không ủy quyền cho người
khác quản lý thì bên kia có quyền quản lý tài sản đó. Việc quản lý tài sản phải
bảo đảm lợi ích của người có tài sản.
3. Nghĩa vụ riêng về tài sản của mỗi
người được thanh toán từ tài sản riêng của người đó.
4. Trong trường hợp vợ, chồng có tài
sản riêng mà hoa lợi, lợi tức từ tài sản riêng đó là nguồn sống duy nhất của
gia đình thì việc định đoạt tài sản này phải có sự đồng ý của chồng, vợ.
Điều 45. Nghĩa vụ
riêng về tài sản của vợ, chồng
Vợ, chồng có các nghĩa vụ riêng về
tài sản sau đây:
1. Nghĩa vụ của mỗi bên vợ, chồng có
trước khi kết hôn;
2. Nghĩa vụ phát sinh từ việc chiếm
hữu, sử dụng, định đoạt tài sản riêng, trừ trường hợp nghĩa vụ phát sinh trong
việc bảo quản, duy trì, tu sửa tài sản riêng của vợ, chồng theo quy định tại
khoản 4 Điều 44 hoặc quy định tại khoản 4 Điều 37 của Luật này;
3. Nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch do
một bên xác lập, thực hiện không vì nhu cầu của gia đình;
4. Nghĩa vụ phát sinh từ hành vi vi
phạm pháp luật của vợ, chồng.
Điều 46. Nhập tài
sản riêng của vợ, chồng vào tài sản chung
1. Việc nhập tài sản riêng của vợ,
chồng vào tài sản chung được thực hiện theo thỏa thuận của vợ chồng.
2. Tài sản được nhập vào tài sản
chung mà theo quy định của pháp luật, giao dịch liên quan đến tài sản đó phải
tuân theo hình thức nhất định thì thỏa thuận phải bảo đảm hình thức đó.
3. Nghĩa vụ liên quan đến tài sản
riêng đã nhập vào tài sản chung được thực hiện bằng tài sản chung, trừ trường
hợp vợ chồng có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác.
Điều 47. Thỏa
thuận xác lập chế độ tài sản của vợ chồng
Trong trường hợp hai bên kết hôn lựa
chọn chế độ tài sản theo thỏa thuận thì thỏa thuận này phải được lập trước khi
kết hôn, bằng hình thức văn bản có công chứng hoặc chứng thực. Chế độ tài sản
của vợ chồng theo thỏa thuận được xác lập kể từ ngày đăng ký kết hôn.
Điều 48. Nội dung
cơ bản của thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng
1. Nội dung cơ bản của thỏa thuận về
chế độ tài sản bao gồm:
a) Tài sản được xác định là tài sản
chung, tài sản riêng của vợ, chồng;
b) Quyền, nghĩa vụ của vợ chồng đối với
tài sản chung, tài sản riêng và giao dịch có liên quan; tài sản để bảo đảm nhu
cầu thiết yếu của gia đình;
c) Điều kiện, thủ tục và nguyên tắc
phân chia tài sản khi chấm dứt chế độ tài sản;
d) Nội dung khác có liên quan.
2. Khi thực hiện chế độ tài sản theo
thỏa thuận mà phát sinh những vấn đề chưa được vợ chồng thỏa thuận hoặc thỏa
thuận không rõ ràng thì áp dụng quy định tại các điều 29, 30, 31 và 32 của Luật
này và quy định tương ứng của chế độ tài sản theo luật định.
Điều 49. Sửa đổi,
bổ sung nội dung của thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng
1. Vợ chồng có quyền sửa đổi, bổ sung
thỏa thuận về chế độ tài sản.
2. Hình thức sửa đổi, bổ sung nội
dung của thỏa thuận về chế độ tài sản theo thỏa thuận được áp dụng theo quy
định tại Điều 47 của Luật này.
Điều 50. Thỏa
thuận về chế độ tài sản của vợ chồng bị vô hiệu
1. Thỏa thuận về chế độ tài sản của
vợ chồng bị Tòa án tuyên bố vô hiệu khi thuộc một trong các trường hợp sau đây:
a) Không tuân thủ điều kiện có hiệu
lực của giao dịch được quy định tại Bộ luật dân sự và các luật khác có liên
quan;
b) Vi phạm một trong các quy định tại
các điều 29, 30, 31 và 32 của Luật này;
c) Nội dung của thỏa thuận vi phạm
nghiêm trọng quyền được cấp dưỡng, quyền được thừa kế và quyền, lợi ích hợp
pháp khác của cha, mẹ, con và thành viên khác của gia đình.
2. Tòa án nhân dân tối cao chủ trì
phối hợp với Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Bộ Tư pháp hướng dẫn khoản 1
Điều này.
Điều 51. Quyền yêu
cầu giải quyết ly hôn
1. Vợ, chồng hoặc cả hai người có
quyền yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn.
2. Cha, mẹ, người thân thích khác có
quyền yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn khi một bên vợ, chồng do bị bệnh tâm
thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của mình,
đồng thời là nạn nhân của bạo lực gia đình do chồng, vợ của họ gây ra làm ảnh
hưởng nghiêm trọng đến tính mạng, sức khỏe, tinh thần của họ.
3. Chồng không có quyền yêu cầu ly
hôn trong trường hợp vợ đang có thai, sinh con hoặc đang nuôi con dưới 12 tháng
tuổi.
Điều 52. Khuyến
khích hòa giải ở cơ sở
Nhà nước và xã hội khuyến khích việc
hòa giải ở cơ sở khi vợ, chồng có yêu cầu ly hôn. Việc hòa giải được thực hiện
theo quy định của pháp luật về hòa giải ở cơ sở.
Điều 53. Thụ lý
đơn yêu cầu ly hôn
1. Tòa án thụ lý đơn yêu cầu ly hôn
theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự.
2. Trong trường hợp không đăng ký kết
hôn mà có yêu cầu ly hôn thì Tòa án thụ lý và tuyên bố không công nhận quan hệ
vợ chồng theo quy định tại khoản 1 Điều 14 của Luật này; nếu có yêu cầu về con
và tài sản thì giải quyết theo quy định tại Điều 15 và Điều 16 của Luật này.
Sau khi đã thụ lý đơn yêu cầu ly hôn,
Tòa án tiến hành hòa giải theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự.
Trong trường hợp vợ chồng cùng yêu
cầu ly hôn, nếu xét thấy hai bên thật sự tự nguyện ly hôn và đã thỏa thuận về
việc chia tài sản, việc trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con trên cơ
sở bảo đảm quyền lợi chính đáng của vợ và con thì Tòa án công nhận thuận tình
ly hôn; nếu không thỏa thuận được hoặc có thỏa thuận nhưng không bảo đảm quyền
lợi chính đáng của vợ và con thì Tòa án giải quyết việc ly hôn.
Điều 56. Ly hôn
theo yêu cầu của một bên
1. Khi vợ hoặc chồng yêu cầu ly hôn
mà hòa giải tại Tòa án không thành thì Tòa án giải quyết cho ly hôn nếu có căn cứ
về việc vợ, chồng có hành vi bạo lực gia đình hoặc vi phạm nghiêm trọng quyền,
nghĩa vụ của vợ, chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống
chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được.
2. Trong trường hợp vợ hoặc
chồng của người bị Tòa án tuyên bố mất tích yêu cầu ly hôn thì Tòa án giải
quyết cho ly hôn.
3. Trong trường hợp có yêu
cầu ly hôn theo quy định tại khoản 2 Điều 51 của Luật này thì Tòa án giải quyết
cho ly hôn nếu có căn cứ về việc chồng, vợ có hành vi bạo lực gia đình làm ảnh
hưởng nghiêm trọng đến tính mạng, sức khỏe, tinh thần của người kia.
Điều 57. Thời
điểm chấm dứt hôn nhân và trách nhiệm gửi bản án, quyết định ly hôn
1. Quan hệ hôn nhân chấm dứt kể từ
ngày bản án, quyết định ly hôn của Tòa án có hiệu lực pháp luật.
2. Tòa án đã giải quyết ly hôn phải
gửi bản án, quyết định ly hôn đã có hiệu lực pháp luật cho cơ quan đã thực hiện
việc đăng ký kết hôn để ghi vào sổ hộ tịch; hai bên ly hôn; cá nhân, cơ quan,
tổ chức khác theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự và các luật khác có liên
quan.
Điều 58. Quyền,
nghĩa vụ của cha mẹ và con sau khi ly hôn
Việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng,
giáo dục con sau khi ly hôn được áp dụng theo quy định tại các điều 81, 82, 83
và 84 của Luật này.
Điều 59. Nguyên
tắc giải quyết tài sản của vợ chồng khi ly hôn
1. Trong trường hợp chế độ tài sản
của vợ chồng theo luật định thì việc giải quyết tài sản do các bên thỏa thuận;
nếu không thỏa thuận được thì theo yêu cầu của vợ, chồng hoặc của hai vợ chồng,
Tòa án giải quyết theo quy định tại các khoản 2, 3, 4 và 5 Điều này và tại các
điều 60, 61, 62, 63 và 64 của Luật này.
Trong trường hợp chế độ tài
sản của vợ chồng theo thỏa thuận thì việc giải quyết tài sản khi ly hôn được áp
dụng theo thỏa thuận đó; nếu thỏa thuận không đầy đủ, rõ ràng thì áp dụng quy
định tương ứng tại các khoản 2, 3, 4 và 5 Điều này và tại các điều 60, 61, 62,
63 và 64 của Luật này để giải quyết.
2. Tài sản chung của vợ chồng được
chia đôi nhưng có tính đến các yếu tố sau đây:
a) Hoàn cảnh của gia đình và của vợ,
chồng;
b) Công sức đóng góp của vợ, chồng
vào việc tạo lập, duy trì và phát triển khối tài sản chung. Lao động của vợ,
chồng trong gia đình được coi như lao động có thu nhập;
c) Bảo vệ lợi ích chính đáng của mỗi
bên trong sản xuất, kinh doanh và nghề nghiệp để các bên có điều kiện tiếp tục
lao động tạo thu nhập;
d) Lỗi của mỗi bên trong vi phạm
quyền, nghĩa vụ của vợ chồng.
3. Tài sản chung của vợ chồng được
chia bằng hiện vật, nếu không chia được bằng hiện vật thì chia theo giá trị;
bên nào nhận phần tài sản bằng hiện vật có giá trị lớn hơn phần mình được hưởng
thì phải thanh toán cho bên kia phần chênh lệch.
4. Tài sản riêng của vợ, chồng thuộc
quyền sở hữu của người đó, trừ trường hợp tài sản riêng đã nhập vào tài sản
chung theo quy định của Luật này.
Trong trường hợp có sự sáp nhập, trộn
lẫn giữa tài sản riêng với tài sản chung mà vợ, chồng có yêu cầu về chia tài
sản thì được thanh toán phần giá trị tài sản của mình đóng góp vào khối tài sản
đó, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận khác.
5. Bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của
vợ, con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc
không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình.
6. Tòa án nhân dân tối cao chủ trì
phối hợp với Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Bộ Tư pháp hướng dẫn Điều này.
Điều 60. Giải
quyết quyền, nghĩa vụ tài sản của vợ chồng đối với người
thứ ba khi ly hôn
1. Quyền, nghĩa vụ tài sản của vợ
chồng đối với người thứ ba vẫn có hiệu lực sau khi ly hôn, trừ trường hợp vợ
chồng và người thứ ba có thỏa thuận khác.
2. Trong trường hợp có tranh chấp về
quyền, nghĩa vụ tài sản thì áp dụng quy định tại các điều 27, 37 và 45 của Luật
này và quy định của Bộ luật dân sự để giải quyết.
Điều 61. Chia tài
sản trong trường hợp vợ chồng sống chung với gia đình
1. Trong trường hợp vợ chồng sống
chung với gia đình mà ly hôn, nếu tài sản của vợ chồng trong khối tài sản chung
của gia đình không xác định được thì vợ hoặc chồng được chia một phần trong
khối tài sản chung của gia đình căn cứ vào công sức đóng góp của vợ chồng vào
việc tạo lập, duy trì, phát triển khối tài sản chung cũng như vào đời sống
chung của gia đình. Việc chia một phần trong khối tài sản chung do vợ chồng
thỏa thuận với gia đình; nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải
quyết.
2. Trong trường hợp vợ chồng sống
chung với gia đình mà tài sản của vợ chồng trong khối tài sản chung của gia
đình có thể xác định được theo phần thì khi ly hôn, phần tài sản của vợ chồng
được trích ra từ khối tài sản chung đó để chia theo quy định tại Điều 59 của
Luật này.
Điều 62. Chia
quyền sử dụng đất của vợ chồng khi ly hôn
1. Quyền sử dụng đất là tài sản riêng
của bên nào thì khi ly hôn vẫn thuộc về bên đó.
2. Việc chia quyền sử dụng đất là tài
sản chung của vợ chồng khi ly hôn được thực hiện như sau:
a) Đối với đất nông nghiệp trồng cây
hàng năm, nuôi trồng thủy sản, nếu cả hai bên đều có nhu cầu và có điều kiện
trực tiếp sử dụng đất thì được chia theo thỏa thuận của hai bên; nếu không thỏa
thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết theo quy định tại Điều 59 của Luật
này.
Trong trường hợp chỉ một bên có nhu
cầu và có điều kiện trực tiếp sử dụng đất thì bên đó được tiếp tục sử dụng
nhưng phải thanh toán cho bên kia phần giá trị quyền sử dụng đất mà họ được
hưởng;
b) Trong trường hợp vợ
chồng có quyền sử dụng đất nông nghiệp trồng cây hàng năm, nuôi trồng thủy sản
chung với hộ gia đình thì khi ly hôn phần quyền sử dụng đất của vợ chồng được
tách ra và chia theo quy định tại điểm a khoản này;
c) Đối với đất nông nghiệp trồng cây
lâu năm, đất lâm nghiệp để trồng rừng, đất ở thì được chia theo quy định tại
Điều 59 của Luật này;
d) Đối với loại đất khác thì được
chia theo quy định của pháp luật về đất đai.
3. Trong trường hợp vợ chồng sống
chung với gia đình mà không có quyền sử dụng đất chung với hộ gia đình thì khi
ly hôn quyền lợi của bên không có quyền sử dụng đất và không tiếp tục sống
chung với gia đình được giải quyết theo quy định tại Điều 61 của Luật này.
Điều 63. Quyền lưu
cư của vợ hoặc chồng khi ly hôn
Nhà ở thuộc sở hữu riêng của vợ,
chồng đã đưa vào sử dụng chung thì khi ly hôn vẫn thuộc sở hữu riêng của người
đó; trường hợp vợ hoặc chồng có khó khăn về chỗ ở thì được quyền lưu cư trong
thời hạn 06 tháng kể từ ngày quan hệ hôn nhân chấm dứt, trừ trường hợp các bên
có thỏa thuận khác.
Điều 64. Chia tài
sản chung của vợ chồng đưa vào kinh doanh
Vợ, chồng đang thực hiện hoạt động
kinh doanh liên quan đến tài sản chung có quyền được nhận tài sản đó và phải
thanh toán cho bên kia phần giá trị tài sản mà họ được hưởng, trừ trường hợp
pháp luật về kinh doanh có quy định khác.
Mục 2: HÔN NHÂN
CHẤM DỨT DO VỢ, CHỒNG CHẾT HOẶC BỊ TÒA ÁN TUYÊN BỐ LÀ ĐÃ CHẾT
Điều 65. Thời điểm
chấm dứt hôn nhân
Hôn nhân chấm dứt kể từ thời điểm vợ
hoặc chồng chết.
Trong trường hợp Tòa án tuyên bố vợ
hoặc chồng là đã chết thì thời điểm hôn nhân chấm dứt được xác định theo ngày
chết được ghi trong bản án, quyết định của Tòa án.
1. Khi một bên vợ, chồng chết hoặc bị
Tòa án tuyên bố là đã chết thì bên còn sống quản lý tài sản chung của vợ chồng,
trừ trường hợp trong di chúc có chỉ định người khác quản lý di sản hoặc những
người thừa kế thỏa thuận cử người khác quản lý di sản.
2. Khi có yêu cầu về chia di sản thì
tài sản chung của vợ chồng được chia đôi, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận
về chế độ tài sản. Phần tài sản của vợ, chồng chết hoặc bị Tòa án tuyên bố là
đã chết được chia theo quy định của pháp luật về thừa kế.
3. Trong trường hợp việc chia di sản
ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống của vợ hoặc chồng còn sống, gia đình thì
vợ, chồng còn sống có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế phân chia di sản theo quy
định của Bộ luật dân sự.
4. Tài sản của vợ chồng trong kinh
doanh được giải quyết theo quy định tại các khoản 1, 2 và 3 Điều này, trừ trường
hợp pháp luật về kinh doanh có quy định khác.
Điều 67. Quan hệ
nhân thân, tài sản khi vợ, chồng bị tuyên bố là đã chết mà trở về
1. Khi Tòa án ra quyết định hủy bỏ
tuyên bố một người là đã chết mà vợ hoặc chồng của người đó chưa kết hôn với
người khác thì quan hệ hôn nhân được khôi phục kể từ thời điểm kết hôn. Trong
trường hợp có quyết định cho ly hôn của Tòa án theo quy định tại khoản 2 Điều
56 của Luật này thì quyết định cho ly hôn vẫn có hiệu lực pháp luật. Trong
trường hợp vợ, chồng của người đó đã kết hôn với người khác thì quan hệ hôn
nhân được xác lập sau có hiệu lực pháp luật.
2. Quan hệ tài sản của người bị tuyên
bố là đã chết trở về với người vợ hoặc chồng được giải quyết như sau:
a) Trong trường hợp hôn
nhân được khôi phục thì quan hệ tài sản được khôi phục kể từ thời điểm quyết
định của Tòa án hủy bỏ tuyên bố chồng, vợ là đã chết có hiệu lực. Tài sản do
vợ, chồng có được kể từ thời điểm quyết định của Tòa án về việc tuyên bố chồng,
vợ là đã chết có hiệu lực đến khi quyết định hủy bỏ tuyên bố chồng, vợ đã chết
có hiệu lực là tài sản riêng của người đó;
b) Trong trường hợp hôn
nhân không được khôi phục thì tài sản có được trước khi quyết định của Tòa án
về việc tuyên bố vợ, chồng là đã chết có hiệu lực mà chưa chia được giải quyết
như chia tài sản khi ly hôn.
Mục 1: QUYỀN VÀ
NGHĨA VỤ GIỮA CHA MẸ VÀ CON
Điều 68. Bảo vệ
quyền và nghĩa vụ của cha mẹ và con
1. Quyền và nghĩa vụ của cha mẹ và
con theo quy định tại Luật này, Bộ luật dân sự và các luật khác có liên quan
được tôn trọng và bảo vệ.
2. Con sinh ra không phụ thuộc vào
tình trạng hôn nhân của cha mẹ đều có quyền và nghĩa vụ như nhau đối với cha mẹ
của mình được quy định tại Luật này, Bộ luật dân sự và các luật khác có liên
quan.
3. Giữa con nuôi và cha nuôi, mẹ nuôi
có các quyền và nghĩa vụ của cha mẹ và con được quy định tại Luật này, Luật
nuôi con nuôi, Bộ luật dân sự và các luật khác có liên quan.
4. Mọi thỏa thuận của cha mẹ, con
liên quan đến quan hệ nhân thân, tài sản không được làm ảnh hưởng đến quyền,
lợi ích hợp
pháp của con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân
sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình, cha mẹ
mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản
để tự nuôi mình.
Điều 69. Nghĩa vụ
và quyền của cha mẹ
1. Thương yêu con, tôn trọng ý kiến
của con; chăm lo việc học tập, giáo dục để con phát triển lành mạnh về thể
chất, trí tuệ, đạo đức, trở thành người con hiếu thảo của gia đình, công dân có
ích cho xã hội.
2. Trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc,
bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của con chưa thành niên, con đã thành niên mất
năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để
tự nuôi mình.
3. Giám hộ hoặc đại diện theo quy
định của Bộ luật dân sự cho con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực
hành vi dân sự.
4. Không được phân biệt đối xử với
con trên cơ sở giới hoặc theo tình trạng hôn nhân của cha mẹ; không được lạm
dụng sức lao động của con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành
vi dân sự hoặc không có khả năng lao động; không được xúi giục, ép buộc con làm
việc trái pháp luật, trái đạo đức xã hội.
Điều 70. Quyền và
nghĩa vụ của con
1. Được cha mẹ thương yêu, tôn trọng,
thực hiện các quyền, lợi ích hợp pháp về nhân thân và tài sản theo quy định của
pháp luật; được học tập và giáo dục; được phát triển lành mạnh về thể chất, trí
tuệ và đạo đức.
2. Có bổn phận yêu quý, kính trọng,
biết ơn, hiếu thảo, phụng dưỡng cha mẹ, giữ gìn danh dự, truyền thống tốt đẹp
của gia đình.
3. Con chưa thành niên, con đã thành
niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có
tài sản để tự nuôi mình thì có quyền sống chung với cha mẹ, được cha mẹ trông
nom, nuôi dưỡng, chăm sóc.
Con chưa thành niên tham gia công
việc gia đình phù hợp với lứa tuổi và không trái với quy định của pháp luật về
bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em.
4. Con đã thành niên có quyền tự do
lựa chọn nghề nghiệp, nơi cư trú, học tập, nâng cao trình độ văn hóa, chuyên
môn, nghiệp vụ; tham gia hoạt động chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội theo
nguyện vọng và khả năng của mình. Khi sống cùng với cha mẹ, con có nghĩa vụ
tham gia công việc gia đình, lao động, sản xuất, tạo thu nhập nhằm bảo đảm đời
sống chung của gia đình; đóng góp thu nhập vào việc đáp ứng nhu cầu của gia
đình phù hợp với khả năng của mình.
5. Được hưởng quyền về tài sản tương
xứng với công sức đóng góp vào tài sản của gia đình.
Điều 71. Nghĩa vụ
và quyền chăm sóc, nuôi dưỡng
1. Cha, mẹ có nghĩa vụ và quyền ngang
nhau, cùng nhau chăm sóc, nuôi dưỡng con chưa thành niên, con đã thành niên mất
năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để
tự nuôi mình.
2. Con có nghĩa vụ và quyền chăm sóc,
nuôi dưỡng cha mẹ, đặc biệt khi cha mẹ mất năng lực hành vi dân sự, ốm đau, già
yếu, khuyết tật; trường hợp gia đình có nhiều con thì các con phải cùng nhau
chăm sóc, nuôi dưỡng cha mẹ.
Điều 72. Nghĩa vụ
và quyền giáo dục con
1. Cha mẹ có nghĩa vụ và quyền giáo
dục con, chăm lo và tạo điều kiện cho con học tập.
Cha mẹ tạo điều kiện cho con
được sống trong môi trường gia đình đầm ấm, hòa thuận; làm gương tốt cho con về
mọi mặt; phối
hợp chặt chẽ với nhà trường, cơ quan, tổ chức trong việc giáo
dục con.
2. Cha mẹ hướng dẫn con chọn nghề;
tôn trọng quyền chọn nghề, quyền tham gia hoạt động chính trị, kinh tế, văn
hóa, xã hội của con.
3. Cha mẹ có thể đề nghị cơ quan, tổ
chức hữu quan giúp đỡ để thực hiện việc giáo dục con khi gặp khó khăn không thể
tự giải quyết được.
1. Cha mẹ là người đại diện theo pháp
luật của con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự,
trừ trường
hợp con có người khác làm giám hộ hoặc có người khác đại diện theo pháp
luật.
2. Cha hoặc mẹ có quyền tự mình thực
hiện giao dịch nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu của con chưa thành niên, con đã
thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không
có tài sản để tự nuôi mình.
3. Đối với giao dịch liên quan đến
tài sản là bất động sản, động sản có đăng ký quyền sở hữu, quyền sử dụng, tài
sản đưa vào kinh doanh của con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực
hành vi dân sự thì phải có sự thỏa thuận của cha mẹ.
4. Cha, mẹ phải chịu trách nhiệm liên
đới về việc thực hiện giao dịch liên quan đến tài sản của con được quy định tại
khoản 2 và khoản 3 Điều này và theo quy định của Bộ luật dân sự.
Điều 74. Bồi
thường thiệt hại do con gây ra
Cha mẹ phải bồi thường thiệt hại do
con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự gây ra theo
quy định của Bộ luật dân sự.
Điều 75. Quyền có
tài sản riêng của con
1. Con có quyền có tài sản riêng. Tài
sản riêng của con bao gồm tài sản được thừa kế riêng, được tặng cho riêng, thu
nhập do lao động của con, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng của con
và thu nhập hợp pháp khác. Tài sản được hình thành từ tài sản riêng của
con cũng là tài sản riêng của con.
2. Con từ đủ 15 tuổi trở lên sống chung
với cha mẹ phải có nghĩa vụ chăm lo đời sống chung của gia đình; đóng góp vào
việc đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình nếu có thu nhập.
3. Con đã thành niên có nghĩa vụ đóng
góp thu nhập vào việc đáp ứng nhu cầu của gia đình theo quy định tại khoản 4
Điều 70 của Luật này.
Điều 76. Quản lý
tài sản riêng của con
1. Con từ đủ 15 tuổi trở lên có thể
tự mình quản lý tài sản riêng hoặc nhờ cha mẹ quản lý.
2. Tài sản riêng của con dưới 15
tuổi, con mất năng lực hành vi dân sự do cha mẹ quản lý. Cha mẹ có thể ủy quyền
cho người khác quản lý tài sản riêng của con. Tài sản riêng của con do cha mẹ
hoặc người khác quản lý được giao lại cho con khi con từ đủ 15 tuổi trở lên
hoặc khi con khôi phục năng lực hành vi dân sự đầy đủ, trừ trường hợp cha mẹ và
con có thỏa thuận khác.
3. Cha mẹ không quản lý tài sản riêng
của con trong trường hợp con đang được người khác giám hộ theo quy định của Bộ
luật dân sự; người tặng cho tài sản hoặc để lại tài sản thừa kế theo di chúc
cho người con đã chỉ định người khác quản lý tài sản đó hoặc trường hợp khác
theo quy định của pháp luật.
4. Trong trường hợp cha mẹ đang quản
lý tài sản riêng của con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành
vi dân sự mà con được giao cho người khác giám hộ thì tài sản riêng của con
được giao lại cho người giám hộ quản lý theo quy định của Bộ luật dân sự.
1. Trường hợp cha mẹ hoặc người giám
hộ quản lý tài sản riêng của con dưới 15 tuổi thì có quyền định đoạt tài sản đó
vì lợi ích của con, nếu con từ đủ 09 tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng
của con.
2. Con từ đủ 15 tuổi đến dưới 18 tuổi
có quyền định đoạt tài sản riêng, trừ trường hợp tài sản là bất động sản, động
sản có đăng ký quyền sở hữu, quyền sử dụng hoặc dùng tài sản để kinh doanh thì
phải có sự đồng ý bằng văn bản của cha mẹ hoặc người giám hộ.
3. Trong trường hợp con đã thành niên
mất năng lực hành vi dân sự thì việc định đoạt tài sản riêng của con do người
giám hộ thực hiện.
Điều 78. Quyền,
nghĩa vụ của cha nuôi, mẹ nuôi và con nuôi
1. Cha nuôi, mẹ nuôi, con nuôi có
quyền và nghĩa vụ của cha, mẹ, con được quy định trong Luật này kể từ thời điểm
quan hệ nuôi con nuôi được xác lập theo quy định của Luật nuôi con nuôi.
Trong trường hợp chấm dứt việc nuôi
con nuôi theo quyết định của Tòa án thì quyền, nghĩa vụ của cha nuôi, mẹ nuôi
với con nuôi chấm dứt kể từ ngày quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật.
2. Quyền, nghĩa vụ của cha đẻ, mẹ đẻ
và con đã làm con nuôi của người khác được thực hiện theo quy định của Luật
nuôi con nuôi.
3. Quyền, nghĩa vụ giữa cha đẻ, mẹ đẻ
và con đẻ được khôi phục kể từ thời điểm quan hệ nuôi con nuôi chấm dứt. Trong trường
hợp cha đẻ, mẹ đẻ không còn hoặc không có đủ điều kiện để nuôi con chưa
thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả
năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình thì Tòa án giải quyết việc
chấm dứt nuôi con nuôi và chỉ định người giám hộ cho con theo quy định của Bộ
luật dân sự.
Điều 79. Quyền,
nghĩa vụ của cha dượng, mẹ kế và con riêng của vợ hoặc của chồng
1. Cha dượng, mẹ kế có quyền và nghĩa
vụ trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con riêng của bên kia cùng sống
chung với mình theo quy định tại các điều 69, 71 và 72 của Luật này.
2. Con riêng có quyền và nghĩa vụ
chăm sóc, phụng dưỡng cha dượng, mẹ kế cùng sống chung với mình theo quy định
tại Điều 70 và Điều 71 của Luật này.
Điều 80. Quyền,
nghĩa vụ của con dâu, con rể, cha mẹ vợ, cha mẹ chồng
Trong trường hợp con dâu, con
rể sống chung với cha mẹ chồng, cha mẹ vợ thì giữa các bên có các quyền, nghĩa
vụ tôn trọng, quan tâm, chăm sóc và giúp đỡ nhau theo quy định tại các điều 69,
70, 71 và 72 của Luật này.
Điều 81. Việc
trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con sau khi ly hôn
1. Sau khi ly hôn, cha mẹ vẫn có
quyền, nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chưa thành niên,
con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động
và không có tài sản để tự nuôi mình theo quy định của Luật này, Bộ luật dân sự
và các luật khác có liên quan.
2. Vợ, chồng thỏa thuận về người trực
tiếp nuôi con, nghĩa vụ, quyền của mỗi bên sau khi ly hôn đối với con; trường
hợp không thỏa thuận được thì Tòa án quyết định giao con cho một bên trực tiếp
nuôi căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con; nếu con từ đủ 07 tuổi trở lên thì
phải xem xét nguyện vọng của con.
3. Con dưới 36 tháng tuổi được giao
cho mẹ trực tiếp nuôi, trừ trường hợp người mẹ không đủ điều kiện để trực tiếp
trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con hoặc cha mẹ có thỏa thuận khác
phù hợp với lợi ích của con.
Điều 82. Nghĩa vụ,
quyền của cha, mẹ không trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn
1. Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con
có nghĩa vụ tôn trọng quyền của con được sống chung với người trực tiếp nuôi.
2. Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con
có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con.
3. Sau khi ly hôn, người không trực
tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.
Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con lạm
dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm
sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa
án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.
1. Cha, mẹ trực tiếp nuôi con có
quyền yêu cầu người không trực tiếp nuôi con thực hiện các nghĩa vụ theo quy
định tại Điều 82 của Luật này; yêu cầu người không trực tiếp nuôi con cùng các
thành viên gia đình tôn trọng quyền được nuôi con của mình.
2. Cha, mẹ trực tiếp nuôi con cùng
các thành viên gia đình không được cản trở người không trực tiếp nuôi con trong
việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.
Điều 84. Thay đổi
người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn
1. Trong trường hợp có yêu
cầu của cha, mẹ hoặc cá nhân, tổ chức được quy định tại khoản 5 Điều này, Tòa
án có thể quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con.
2. Việc thay đổi người trực tiếp nuôi
con được giải quyết khi có một trong các căn cứ sau đây:
a) Cha, mẹ có thỏa thuận về việc thay
đổi người trực tiếp nuôi con phù hợp với lợi ích của con;
b) Người trực tiếp nuôi con không còn
đủ điều kiện trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.
3. Việc thay đổi người trực tiếp nuôi
con phải xem xét nguyện vọng của con từ đủ 07 tuổi trở lên.
4. Trong trường hợp xét
thấy cả cha và mẹ đều không đủ điều kiện trực tiếp nuôi con thì Tòa án quyết
định giao con cho người giám hộ theo quy định của Bộ luật dân sự.
5. Trong trường hợp có căn
cứ theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều này thì trên cơ sở lợi ích của con, cá
nhân, cơ quan, tổ chức sau có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con:
a) Người thân thích;
b) Cơ quan quản lý nhà nước về gia
đình;
c) Cơ quan quản lý nhà nước về trẻ
em;
d) Hội liên hiệp phụ nữ.
Điều 85. Hạn chế
quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên
1. Cha, mẹ bị hạn chế quyền đối với
con chưa thành niên trong các trường hợp sau đây:
a) Bị kết án về một trong các tội xâm
phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con với lỗi cố ý hoặc có hành
vi vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con;
b) Phá tán tài sản của con;
c) Có lối sống đồi trụy;
d) Xúi giục, ép buộc con làm những
việc trái pháp luật, trái đạo đức xã hội.
2. Căn cứ vào từng trường hợp cụ thể,
Tòa án có thể tự mình hoặc theo yêu cầu của cá nhân, cơ quan, tổ chức quy định
tại Điều 86 của Luật này ra quyết định không cho cha, mẹ trông nom, chăm sóc,
giáo dục con, quản lý tài sản riêng của con hoặc đại diện theo pháp luật cho
con trong thời hạn từ 01 năm đến 05 năm. Tòa án có thể xem xét việc rút ngắn
thời hạn này.
Điều 86. Người có
quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành
niên
1. Cha, mẹ, người giám hộ của con
chưa thành niên, theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự, có quyền yêu
cầu Tòa án hạn chế quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên.
2. Cá nhân, cơ quan, tổ chức sau đây,
theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự, có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế
quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên:
a) Người thân thích;
b) Cơ quan quản lý nhà nước về gia
đình;
c) Cơ quan quản lý nhà nước về trẻ
em;
d) Hội liên hiệp phụ nữ.
3. Cá nhân, cơ quan, tổ chức khác khi
phát hiện cha, mẹ có hành vi vi phạm quy định tại khoản 1 Điều 85 của Luật này
có quyền đề nghị cơ quan, tổ chức quy định tại các điểm b, c và d khoản 2 Điều
này yêu cầu Tòa án hạn chế quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên.
Điều 87. Hậu quả
pháp lý của việc cha, mẹ bị hạn chế quyền đối với con chưa thành niên
1. Trong trường hợp cha
hoặc mẹ bị Tòa án hạn chế quyền đối với con chưa thành niên thì người kia thực
hiện quyền trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con, quản lý tài sản riêng
của con và đại diện theo pháp luật cho con.
2. Việc trông nom, chăm sóc, giáo dục
con và quản lý tài sản riêng của con chưa thành niên được giao cho người giám
hộ theo quy định của Bộ luật dân sự và Luật này trong các trường
hợp sau đây:
a) Cha và mẹ đều bị Tòa án hạn chế
quyền đối với con chưa thành niên;
b) Một bên cha, mẹ không bị hạn chế
quyền đối với con chưa thành niên nhưng không đủ điều kiện để thực hiện quyền,
nghĩa vụ đối với con;
c) Một bên cha, mẹ bị hạn chế quyền
đối với con chưa thành niên và chưa xác định được bên cha, mẹ còn lại của con
chưa thành niên.
3. Cha, mẹ đã bị Tòa án hạn chế quyền
đối với con chưa thành niên vẫn phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng cho con.
1. Con sinh ra trong thời kỳ hôn nhân
hoặc do người vợ có thai trong thời kỳ hôn nhân là con chung của vợ chồng.
Con được sinh ra trong thời hạn 300
ngày kể từ thời điểm chấm dứt hôn nhân được coi là con do người vợ có thai
trong thời kỳ hôn nhân.
Con sinh ra trước ngày đăng ký kết
hôn và được cha mẹ thừa nhận là con chung của vợ chồng.
2. Trong trường hợp cha, mẹ không
thừa nhận con thì phải có chứng cứ và phải được Tòa án xác định.
1. Người không được nhận là cha, mẹ
của một người có thể yêu cầu Tòa án xác định người đó là con mình.
2. Người được nhận là cha, mẹ
của một người có thể yêu cầu Tòa án xác định người đó không phải là con mình.
1. Con có quyền nhận cha, mẹ của
mình, kể cả trong trường hợp cha, mẹ đã chết.
2. Con đã thành niên nhận cha, không
cần phải có sự đồng ý của mẹ; nhận mẹ, không cần phải có sự đồng ý của cha.
1. Cha, mẹ có quyền nhận con, kể cả
trong trường hợp con đã chết.
2. Trong trường hợp người đang có vợ,
chồng mà nhận con thì việc nhận con không cần phải có sự đồng ý của người kia.
Điều 92. Xác định
cha, mẹ, con trong trường hợp người có yêu cầu chết
Trong trường hợp có yêu cầu về việc
xác định cha, mẹ, con mà người có yêu cầu chết thì người thân thích của người
này có quyền yêu cầu Tòa án xác định cha, mẹ, con cho người yêu cầu đã chết.
Điều 93. Xác định
cha, mẹ trong trường hợp sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản
1. Trong trường hợp người vợ sinh con
bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản thì việc xác định cha, mẹ được áp dụng theo quy
định tại Điều 88 của Luật này.
2. Trong trường hợp người phụ nữ sống
độc thân sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản thì người phụ nữ đó là mẹ của
con được sinh ra.
3. Việc sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ
sinh sản không làm phát sinh quan hệ cha, mẹ và con giữa người cho tinh trùng,
cho noãn, cho phôi với người con được sinh ra.
4. Việc xác định cha, mẹ trong trường
hợp mang thai hộ vì mục đích nhân đạo được áp dụng theo quy định tại Điều 94
của Luật này.
Điều 94. Xác định
cha, mẹ trong trường hợp mang thai hộ vì mục đích nhân đạo
Con sinh ra trong trường hợp mang
thai hộ vì mục đích nhân đạo là con chung của vợ chồng nhờ mang thai hộ kể từ
thời điểm con được sinh ra.
Điều 95. Điều kiện
mang thai hộ vì mục đích nhân đạo
1. Việc mang thai hộ vì mục đích nhân
đạo phải được thực hiện trên cơ sở tự nguyện của các bên và được lập thành văn
bản.
2. Vợ chồng có quyền nhờ người mang
thai hộ khi có đủ các điều kiện sau đây:
a) Có xác nhận của tổ chức y tế có
thẩm quyền về việc người vợ không thể mang thai và sinh con ngay cả khi áp dụng
kỹ thuật hỗ trợ sinh sản;
b) Vợ chồng đang không có con chung;
c) Đã được tư vấn về y tế, pháp lý,
tâm lý.
3. Người được nhờ mang thai hộ phải
có đủ các điều kiện sau đây:
a) Là người thân thích cùng hàng của
bên vợ hoặc bên chồng nhờ mang thai hộ;
b) Đã từng sinh con và chỉ được mang
thai hộ một lần;
c) Ở độ tuổi phù hợp và có xác
nhận của tổ chức y tế có thẩm quyền về khả năng mang thai hộ;
d) Trường hợp người phụ nữ mang
thai hộ có chồng thì phải có sự đồng ý bằng văn bản của người chồng;
đ) Đã được tư vấn về y tế, pháp lý,
tâm lý.
4. Việc mang thai hộ vì mục đích nhân
đạo không được trái với quy định của pháp luật về sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ
sinh sản.
5. Chính phủ quy định chi tiết Điều
này.
Điều 96. Thỏa
thuận về mang thai hộ vì mục đích nhân đạo
1. Thỏa thuận về mang thai hộ vì mục
đích nhân đạo giữa vợ chồng nhờ mang thai hộ (sau đây gọi là bên nhờ mang thai
hộ) và vợ chồng người mang thai hộ (sau đây gọi là bên mang thai hộ) phải có
các nội dung cơ bản sau đây:
a) Thông tin đầy đủ về bên nhờ mang
thai hộ và bên mang thai hộ theo các điều kiện có liên quan quy định tại Điều
95 của Luật này;
b) Cam kết thực hiện các quyền, nghĩa
vụ quy định tại Điều 97 và Điều 98 của Luật này;
c) Việc giải quyết hậu quả trong
trường hợp có tai biến sản khoa; hỗ trợ để bảo đảm sức khỏe sinh sản cho người
mang thai hộ trong thời gian mang thai và sinh con, việc nhận con của bên nhờ
mang thai hộ, quyền và nghĩa vụ của hai bên đối với con trong trường
hợp con chưa được giao cho bên nhờ mang thai hộ và các quyền, nghĩa vụ
khác có liên quan;
d) Trách nhiệm dân sự trong trường
hợp một hoặc cả hai bên vi phạm cam kết theo thỏa thuận.
2. Thỏa thuận về việc mang thai hộ
phải được lập thành văn bản có công chứng. Trong trường hợp vợ chồng bên
nhờ mang thai hộ ủy quyền cho nhau hoặc vợ chồng bên mang thai hộ ủy quyền cho
nhau về việc thỏa thuận thì việc ủy quyền phải lập thành văn bản có công chứng.
Việc ủy quyền cho người thứ ba không có giá trị pháp lý.
Trong trường hợp thỏa thuận về
mang thai hộ giữa bên mang thai hộ và bên nhờ mang thai hộ được lập cùng với
thỏa thuận giữa họ với cơ sở y tế thực hiện việc sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ
sinh sản thì thỏa thuận này phải có xác nhận của người có thẩm quyền của cơ sở
y tế này.
Điều 97. Quyền,
nghĩa vụ của bên mang thai hộ vì mục đích nhân đạo
1. Người mang thai hộ, chồng của
người mang thai hộ có quyền, nghĩa vụ như cha mẹ trong việc chăm sóc sức khỏe
sinh sản và chăm sóc, nuôi dưỡng con cho đến thời điểm giao đứa trẻ cho bên nhờ
mang thai hộ; phải giao đứa trẻ cho bên nhờ mang thai hộ.
2. Người mang thai hộ phải tuân thủ
quy định về thăm khám, các quy trình sàng lọc để phát hiện, điều trị các bất
thường, dị tật của bào thai theo quy định của Bộ Y tế.
3. Người mang thai hộ được hưởng chế
độ thai sản theo quy định của pháp luật về lao động và bảo hiểm xã hội cho đến
thời điểm giao đứa trẻ cho bên nhờ mang thai hộ. Trong trường hợp kể từ ngày
sinh đến thời điểm giao đứa trẻ mà thời gian hưởng chế độ thai sản chưa đủ 60
ngày thì người mang thai hộ vẫn được hưởng chế độ thai sản cho đến khi đủ 60
ngày. Việc sinh con do mang thai hộ không tính vào số con theo chính sách dân
số và kế hoạch hóa gia đình.
4. Bên mang thai hộ có quyền yêu cầu
bên nhờ mang thai hộ thực hiện việc hỗ trợ, chăm sóc sức khỏe sinh sản.
Trong trường hợp vì lý do tính
mạng, sức khỏe của mình hoặc sự phát triển của thai nhi, người mang thai hộ có
quyền quyết định về số lượng bào thai, việc tiếp tục hay không tiếp tục mang
thai phù
hợp với quy định của pháp luật về chăm sóc sức khỏe sinh sản và sinh con
bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản.
5. Trong trường hợp bên nhờ
mang thai hộ từ chối nhận con thì bên mang thai hộ có quyền yêu cầu Tòa án buộc
bên nhờ mang thai hộ nhận con.
Điều 98. Quyền,
nghĩa vụ của bên nhờ mang thai hộ vì mục đích nhân đạo
1. Bên nhờ mang thai hộ có nghĩa vụ
chi trả các chi phí thực tế để bảo đảm việc chăm sóc sức khỏe sinh sản theo quy
định của Bộ Y tế.
2. Quyền, nghĩa vụ của bên nhờ mang
thai hộ vì mục đích nhân đạo đối với con phát sinh kể từ thời điểm con được
sinh ra. Người mẹ nhờ mang thai hộ được hưởng chế độ thai sản theo quy định của
pháp luật về lao động và bảo hiểm xã hội từ thời điểm nhận con cho
đến khi con đủ 06 tháng tuổi.
3. Bên nhờ mang thai hộ không được từ
chối nhận con. Trong trường hợp bên nhờ mang thai hộ chậm nhận con hoặc vi phạm
nghĩa vụ về nuôi dưỡng, chăm sóc con thì phải có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con
theo quy định của Luật này và bị xử lý theo quy định của pháp luật có liên
quan; nếu gây thiệt hại cho bên mang thai hộ thì phải bồi thường. Trong trường
hợp bên nhờ mang thai hộ chết thì con được hưởng thừa kế theo quy định
của pháp luật đối với di sản của bên nhờ mang thai hộ.
4. Giữa con sinh ra từ việc mang thai
hộ với các thành viên khác của gia đình bên nhờ mang thai hộ có các quyền,
nghĩa vụ theo quy định của Luật này, Bộ luật dân sự và luật khác có liên quan.
5. Trong trường hợp bên
mang thai hộ từ chối giao con thì bên nhờ mang thai hộ có quyền yêu cầu Tòa án
buộc bên mang thai hộ giao con.
1. Tòa án là cơ quan có thẩm quyền
giải quyết tranh chấp về sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản, mang thai hộ.
2. Trong trường hợp chưa giao đứa trẻ
mà cả hai vợ chồng bên nhờ mang thai hộ chết hoặc mất năng lực hành vi dân sự
thì bên mang thai hộ có quyền nhận nuôi đứa trẻ; nếu bên mang thai hộ không
nhận nuôi đứa trẻ thì việc giám hộ và cấp dưỡng đối với đứa trẻ được thực hiện
theo quy định của Luật này và Bộ luật dân sự.
Điều 100. Xử lý
hành vi vi phạm về sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản và mang thai hộ
Các bên trong quan hệ sinh con bằng
kỹ thuật hỗ trợ sinh sản, mang thai hộ vi phạm điều kiện, quyền, nghĩa vụ được
quy định tại Luật này thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý theo
trách nhiệm dân sự, hành chính, hình sự.
Điều 101. Thẩm
quyền giải quyết việc xác định cha, mẹ, con
1. Cơ quan đăng ký hộ tịch có thẩm
quyền xác định cha, mẹ, con theo quy định của pháp luật về hộ tịch trong trường
hợp không có tranh chấp.
2. Tòa án có thẩm quyền giải quyết
việc xác định cha, mẹ, con trong trường hợp có tranh chấp hoặc người
được yêu cầu xác định là cha, mẹ, con đã chết và trường hợp quy định tại Điều
92 của Luật này.
Quyết định của Tòa án về xác định
cha, mẹ, con phải được gửi cho cơ quan đăng ký hộ tịch để ghi chú theo quy định
của pháp luật về hộ tịch; các bên trong quan hệ xác định cha, mẹ, con; cá nhân,
cơ quan, tổ chức có liên quan theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự.
Điều 102. Người có
quyền yêu cầu xác định cha, mẹ, con
1. Cha, mẹ, con đã thành niên không
bị mất năng lực hành vi dân sự có quyền yêu cầu cơ quan đăng ký hộ tịch xác
định con, cha, mẹ cho mình trong trường hợp được quy định tại khoản 1 Điều 101
của Luật này.
2. Cha, mẹ, con, theo quy định của
pháp luật về tố tụng dân sự, có quyền yêu cầu Tòa án xác định con, cha, mẹ cho
mình trong trường hợp được quy định tại khoản 2 Điều 101 của Luật này.
3. Cá nhân, cơ quan, tổ chức sau đây,
theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự, có quyền yêu cầu Tòa án xác định
cha, mẹ cho con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự;
xác định con cho cha, mẹ chưa thành niên hoặc mất năng lực hành vi dân sự trong
các trường hợp được quy định tại khoản 2 Điều 101 của Luật này:
a) Cha, mẹ, con, người giám hộ;
b) Cơ quan quản lý nhà nước về gia
đình;
c) Cơ quan quản lý nhà nước về trẻ
em;
d) Hội liên hiệp phụ nữ.
QUAN HỆ GIỮA CÁC
THÀNH VIÊN KHÁC CỦA GIA ĐÌNH
Điều 103. Quyền,
nghĩa vụ giữa các thành viên khác của gia đình
1. Các thành viên gia đình có quyền,
nghĩa vụ quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ, tôn trọng nhau. Quyền, lợi ích hợp pháp
về nhân thân và tài sản của các thành viên gia đình quy định tại Luật này, Bộ
luật dân sự và các luật khác có liên quan được pháp luật bảo vệ.
2. Trong trường hợp sống
chung thì các thành viên gia đình có nghĩa vụ tham gia công việc gia đình, lao
động tạo thu nhập; đóng góp công sức, tiền hoặc tài sản khác để duy trì đời
sống chung của gia đình phù hợp với khả năng thực tế của mình.
3. Nhà nước có chính sách tạo điều
kiện để các thế hệ trong gia đình quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau nhằm giữ gìn
và phát huy truyền thống tốt đẹp của gia đình Việt Nam; khuyến khích các cá
nhân, tổ
chức trong xã hội cùng tham gia vào việc giữ gìn, phát huy truyền thống
tốt đẹp của gia đình Việt Nam.
Điều 104. Quyền,
nghĩa vụ của ông bà nội, ông bà ngoại và cháu
1. Ông bà nội, ông bà ngoại có quyền,
nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, giáo dục cháu, sống mẫu mực và nêu gương tốt cho
con cháu; trường hợp cháu chưa thành niên, cháu đã thành niên mất năng lực hành
vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình
mà không có người nuôi dưỡng theo quy định tại Điều 105 của Luật này thì ông bà
nội, ông bà ngoại có nghĩa vụ nuôi dưỡng cháu.
2. Cháu có nghĩa vụ kính trọng, chăm
sóc, phụng dưỡng ông bà nội, ông bà ngoại; trường hợp ông bà nội, ông bà ngoại
không có con để nuôi dưỡng mình thì cháu đã thành niên có nghĩa vụ nuôi dưỡng.
Điều 105. Quyền,
nghĩa vụ của anh, chị, em
Anh, chị, em có quyền, nghĩa vụ
thương yêu, chăm sóc, giúp đỡ nhau; có quyền, nghĩa vụ nuôi dưỡng nhau trong
trường hợp không còn cha mẹ hoặc cha mẹ không có điều kiện trông nom, nuôi
dưỡng, chăm sóc, giáo dục con.
Điều 106. Quyền,
nghĩa vụ của cô, dì, chú, cậu, bác ruột và cháu ruột
Cô, dì, chú, cậu, bác ruột và cháu
ruột có quyền, nghĩa vụ thương yêu, chăm sóc, giúp đỡ nhau; có quyền, nghĩa vụ
nuôi dưỡng nhau trong trường hợp người cần được nuôi dưỡng không còn cha, mẹ,
con và những người được quy định tại Điều 104 và Điều 105 của Luật này hoặc còn
nhưng những người này không có điều kiện để thực hiện nghĩa vụ nuôi dưỡng.
1. Nghĩa vụ cấp dưỡng được thực hiện
giữa cha, mẹ và con; giữa anh, chị, em với nhau; giữa ông bà nội, ông bà ngoại
và cháu; giữa cô, dì, chú, cậu, bác ruột và cháu ruột; giữa vợ và chồng theo quy
định của Luật này.
Nghĩa vụ cấp dưỡng không thể thay thế
bằng nghĩa vụ khác và không thể chuyển giao cho người khác.
2. Trong trường hợp người có nghĩa vụ
nuôi dưỡng trốn tránh nghĩa vụ thì theo yêu cầu của cá nhân, cơ quan, tổ chức
được quy định tại Điều 119 của Luật này, Tòa án buộc người đó phải thực hiện
nghĩa vụ cấp dưỡng theo quy định của Luật này.
Điều 108. Một
người cấp dưỡng cho nhiều người
Trong trường hợp một người có nghĩa
vụ cấp dưỡng cho nhiều người thì người cấp dưỡng và những người được cấp dưỡng
thỏa thuận với nhau về phương thức và mức cấp dưỡng phù hợp với thu nhập, khả
năng thực tế của người có nghĩa vụ cấp dưỡng và nhu cầu thiết yếu của những
người được cấp dưỡng; nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết.
Điều 109. Nhiều
người cùng cấp dưỡng cho một người hoặc cho nhiều người
Trong trường hợp nhiều người cùng có
nghĩa vụ cấp dưỡng cho một người hoặc cho nhiều người thì những người này thỏa
thuận với nhau về phương thức và mức đóng góp phù hợp với thu nhập, khả năng
thực tế của mỗi người và nhu cầu thiết yếu của người được cấp dưỡng; nếu không
thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết.
Điều 110. Nghĩa vụ
cấp dưỡng của cha, mẹ đối với con
Cha, mẹ có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con
chưa thành niên, con đã thành niên không có khả năng lao động và không có tài
sản để tự nuôi mình trong trường hợp không sống chung với con hoặc sống
chung với con nhưng vi phạm nghĩa vụ nuôi dưỡng con.
Điều 111. Nghĩa vụ
cấp dưỡng của con đối với cha, mẹ
Con đã thành niên không sống chung
với cha, mẹ có nghĩa vụ cấp dưỡng cho cha, mẹ trong trường hợp cha, mẹ không có
khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình.
Điều 112. Nghĩa vụ
cấp dưỡng giữa anh, chị, em
Trong trường hợp không còn cha mẹ
hoặc cha mẹ không có khả năng lao động và không có tài sản để cấp dưỡng cho con
thì anh, chị đã thành niên không sống chung với em có nghĩa vụ cấp dưỡng cho em
chưa thành niên không có tài sản để tự nuôi mình hoặc em đã thành niên không có
khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình; em đã thành niên không
sống chung với anh, chị có nghĩa vụ cấp dưỡng cho anh, chị không có khả năng
lao động và không có tài sản để tự nuôi mình.
Điều 113. Nghĩa vụ
cấp dưỡng giữa ông bà nội, ông bà ngoại và cháu
1. Ông bà nội, ông bà ngoại không
sống chung với cháu có nghĩa vụ cấp dưỡng cho cháu trong trường hợp cháu chưa
thành niên hoặc cháu đã thành niên không có khả năng lao động, không có tài sản
để tự nuôi mình và không có người cấp dưỡng theo quy định tại Điều 112 của Luật
này.
2. Cháu đã thành niên không sống
chung với ông bà nội, ông bà ngoại có nghĩa vụ cấp dưỡng cho ông bà nội, ông bà
ngoại trong trường hợp ông bà không có khả năng lao động, không có tài sản để
tự nuôi mình và không có người khác cấp dưỡng theo quy định của Luật này.
Điều 114. Nghĩa vụ
cấp dưỡng giữa cô, dì, chú, cậu, bác ruột và cháu ruột
1. Cô, dì, chú, cậu, bác ruột không
sống chung với cháu ruột có nghĩa vụ cấp dưỡng cho cháu trong trường hợp cháu
chưa thành niên hoặc cháu đã thành niên không có khả năng lao động và không có
tài sản để tự nuôi mình mà không có người khác cấp dưỡng theo quy định của Luật
này.
2. Cháu đã thành niên không sống
chung với cô, dì, chú, cậu, bác ruột có nghĩa vụ cấp dưỡng cho cô, dì, chú,
cậu, bác ruột trong trường hợp người cần được cấp dưỡng không có khả năng lao
động và không có tài sản để tự nuôi mình mà không có người khác cấp dưỡng theo
quy định của Luật này.
Điều 115. Nghĩa vụ
cấp dưỡng giữa vợ và chồng khi ly hôn
Khi ly hôn nếu bên khó khăn, túng
thiếu có yêu cầu cấp dưỡng mà có lý do chính đáng thì bên kia có nghĩa vụ cấp
dưỡng theo khả năng của mình.
1. Mức cấp dưỡng do người có nghĩa vụ
cấp dưỡng và người được cấp dưỡng hoặc người giám hộ của người đó thỏa thuận
căn cứ vào thu nhập, khả năng thực tế của người có nghĩa vụ cấp dưỡng và nhu
cầu thiết yếu của người được cấp dưỡng; nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu
Tòa án giải quyết.
2. Khi có lý do chính đáng, mức cấp
dưỡng có thể thay đổi. Việc thay đổi mức cấp dưỡng do các bên thỏa thuận; nếu
không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết.
Điều 117. Phương
thức cấp dưỡng
Việc cấp dưỡng có thể được thực hiện
định kỳ hàng tháng, hàng quý, nửa năm, hàng năm hoặc một lần.
Các bên có thể thỏa thuận thay đổi
phương thức cấp dưỡng, tạm ngừng cấp dưỡng trong trường hợp người có nghĩa vụ
cấp dưỡng lâm vào tình trạng khó khăn về kinh tế mà không có khả năng thực hiện
nghĩa vụ cấp dưỡng; nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết.
Điều 118. Chấm dứt
nghĩa vụ cấp dưỡng
Nghĩa vụ cấp dưỡng chấm dứt trong các
trường hợp sau đây:
1. Người được cấp dưỡng đã thành niên
và có khả năng lao động hoặc có tài sản để tự nuôi mình;
2. Người được cấp dưỡng được nhận làm
con nuôi;
3. Người cấp dưỡng đã trực tiếp nuôi
dưỡng người được cấp dưỡng;
4. Người cấp dưỡng hoặc người được
cấp dưỡng chết;
5. Bên được cấp dưỡng sau khi ly hôn
đã kết hôn;
6. Trường hợp khác theo quy định của
luật.
Điều 119. Người có
quyền yêu cầu thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng
1. Người được cấp dưỡng, cha, mẹ hoặc
người giám hộ của người đó, theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự, có
quyền yêu cầu Tòa án buộc người không tự nguyện thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng
phải thực hiện nghĩa vụ đó.
2. Cá nhân, cơ quan, tổ chức sau đây,
theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự, có quyền yêu cầu Tòa án buộc
người không tự nguyện thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng phải thực hiện nghĩa vụ đó:
a) Người thân thích;
b) Cơ quan quản lý nhà nước về gia
đình;
c) Cơ quan quản lý nhà nước về trẻ
em;
d) Hội liên hiệp phụ nữ.
3. Cá nhân, cơ quan, tổ chức khác khi
phát hiện hành vi trốn tránh thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng có quyền đề nghị cơ
quan, tổ chức quy định tại các điểm b, c và d khoản 2 Điều này yêu cầu Tòa án
buộc người không tự nguyện thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng phải thực hiện nghĩa vụ
đó.
Điều 120. Khuyến
khích việc trợ giúp của tổ chức, cá nhân
Nhà nước và xã hội khuyến khích tổ
chức, cá nhân trợ giúp bằng tiền hoặc tài sản khác cho gia đình, cá nhân có
hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, túng thiếu.
QUAN HỆ HÔN NHÂN
VÀ GIA ĐÌNH CÓ YẾU TỐ NƯỚC NGOÀI
1. Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam, quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài được tôn trọng và
bảo vệ phù
hợp với các quy định của pháp luật Việt Nam và điều ước quốc tế mà Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên.
2. Trong quan hệ hôn nhân và gia đình
với công dân Việt Nam, người nước ngoài tại Việt Nam có các quyền, nghĩa vụ như
công dân Việt Nam, trừ trường hợp pháp luật Việt Nam có quy định khác.
3. Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam bảo hộ quyền, lợi ích hợp pháp của công dân Việt Nam ở nước ngoài
trong quan hệ hôn nhân và gia đình phù hợp với pháp luật Việt Nam, pháp luật
của nước sở tại, pháp luật và tập quán quốc tế.
4. Chính phủ quy định chi tiết việc
giải quyết quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài nhằm bảo đảm
quyền, lợi ích hợp pháp của các bên và bảo đảm thực hiện quy định tại
khoản 2 Điều 5 của Luật này.
Điều 122. Áp dụng pháp
luật đối với quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài
1. Các quy định của pháp luật về hôn
nhân và gia đình của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam được áp dụng đối
với quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài, trừ trường
hợp Luật này có quy định khác.
Trong trường hợp điều ước quốc
tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên có quy định khác với quy
định của Luật này thì áp dụng quy định của điều ước quốc tế đó.
2. Trong trường hợp Luật này, các văn
bản pháp luật khác của Việt Nam có dẫn chiếu về việc áp dụng pháp luật nước
ngoài thì pháp luật nước ngoài được áp dụng, nếu việc áp dụng đó không trái với
các nguyên tắc cơ bản được quy định tại Điều 2 của Luật này.
Trong trường hợp pháp luật
nước ngoài dẫn chiếu trở lại pháp luật Việt Nam thì áp dụng pháp luật về hôn
nhân và gia đình Việt Nam.
3. Trong trường hợp điều
ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên có dẫn chiếu về
việc áp dụng pháp luật nước ngoài thì pháp luật nước ngoài được áp dụng.
Điều 123. Thẩm
quyền giải quyết các vụ việc hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài
1. Thẩm quyền đăng ký hộ tịch liên
quan đến các quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài được thực hiện
theo quy
định của pháp luật về hộ tịch.
2. Thẩm quyền giải quyết các vụ việc
hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài tại Tòa án được thực hiện theo quy
định của Bộ luật tố tụng dân sự.
3. Tòa án nhân dân cấp huyện nơi cư
trú của công dân Việt Nam hủy việc kết hôn trái pháp luật, giải quyết việc ly
hôn, các tranh chấp về quyền và nghĩa vụ của vợ chồng, cha mẹ và con, về nhận
cha, mẹ, con, nuôi con nuôi và giám hộ giữa công dân Việt Nam cư trú ở khu vực
biên giới với công dân của nước láng giềng cùng cư trú ở khu vực biên giới với
Việt Nam theo quy định của Luật này và các quy định khác của pháp luật Việt
Nam.
Điều 124. Hợp
pháp hóa lãnh sự giấy tờ, tài liệu về hôn nhân và gia đình
Giấy tờ do cơ quan có thẩm quyền của
nước ngoài lập, cấp hoặc xác nhận để sử dụng giải quyết các vụ việc hôn nhân và
gia đình thì phải được hợp pháp hóa lãnh sự, trừ trường hợp được miễn hợp pháp
hóa lãnh sự theo điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là
thành viên hoặc theo nguyên tắc có đi có lại.
1. Việc công nhận bản án, quyết định
về hôn nhân và gia đình của Tòa án nước ngoài có yêu cầu thi hành tại Việt Nam
được thực hiện theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.
2. Chính phủ quy định việc ghi vào sổ
hộ tịch các việc về hôn nhân và gia đình theo bản án, quyết định của Tòa án
nước ngoài mà không có yêu cầu thi hành tại Việt Nam hoặc không có đơn yêu cầu
không công nhận tại Việt Nam; quyết định về hôn nhân và gia đình của cơ quan
khác có thẩm quyền của nước ngoài.
Điều 126. Kết hôn
có yếu tố nước ngoài
1. Trong việc kết hôn giữa công dân
Việt Nam với người nước ngoài, mỗi bên phải tuân theo pháp luật của nước mình
về điều kiện kết hôn; nếu việc kết hôn được tiến hành tại cơ quan nhà nước có
thẩm quyền của Việt Nam thì người nước ngoài còn phải tuân theo các quy định
của Luật này về điều kiện kết hôn.
2. Việc kết hôn giữa những người nước
ngoài thường trú ở Việt Nam tại cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam phải tuân
theo các quy định của Luật này về điều kiện kết hôn.
Điều 127. Ly hôn
có yếu tố nước ngoài
1. Việc ly hôn giữa công dân Việt Nam
với
người nước ngoài, giữa người nước ngoài với nhau thường trú ở Việt Nam được
giải quyết tại cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam theo quy định của Luật này.
2. Trong trường hợp bên là công dân
Việt Nam không thường trú ở Việt Nam vào thời điểm yêu cầu ly hôn thì việc ly
hôn được giải quyết theo pháp luật của nước nơi thường trú chung của vợ chồng;
nếu họ không có nơi thường trú chung thì giải quyết theo pháp luật Việt Nam.
3. Việc giải quyết tài sản là bất
động sản ở nước ngoài khi ly hôn tuân theo pháp luật của nước nơi có bất động
sản đó.
Điều 128. Xác định
cha, mẹ, con có yếu tố nước ngoài
1. Cơ quan đăng ký hộ tịch Việt Nam
có thẩm quyền giải quyết việc xác định cha, mẹ, con mà không có tranh chấp giữa
công dân Việt Nam với người nước ngoài, giữa công dân Việt Nam với nhau mà ít
nhất một bên định cư ở nước ngoài, giữa người nước ngoài với nhau mà ít nhất
một bên thường trú tại Việt Nam theo quy định của pháp luật về hộ tịch.
2. Tòa án có thẩm quyền của Việt Nam
giải quyết việc xác định cha, mẹ, con có yếu tố nước ngoài đối với trường hợp
quy định tại khoản 2 Điều 88, Điều 89, Điều 90, khoản 1, khoản 5 Điều 97, khoản
3, khoản 5 Điều 98 và Điều 99 của Luật này; các trường hợp khác có tranh chấp.
Điều 129. Nghĩa vụ
cấp dưỡng có yếu tố nước ngoài
1. Nghĩa vụ cấp dưỡng tuân theo pháp
luật của nước nơi người yêu cầu cấp dưỡng cư trú. Trường hợp người yêu cầu cấp
dưỡng không có nơi cư trú tại Việt Nam thì áp dụng pháp luật của nước nơi người
yêu cầu cấp dưỡng là công dân.
2. Cơ quan có thẩm quyền giải quyết
đơn yêu cầu cấp dưỡng của người quy định tại khoản 1 Điều này là cơ quan của
nước nơi người yêu cầu cấp dưỡng cư trú.
Trong trường hợp có yêu cầu giải
quyết việc áp dụng chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận; quan hệ nam, nữ
chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn có yếu tố nước ngoài
thì cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam áp dụng các quy định của Luật này và các
luật khác có liên quan của Việt Nam để giải quyết.
Điều 131. Điều
khoản chuyển tiếp
1. Quan hệ hôn nhân và gia đình được
xác lập trước ngày Luật này có hiệu lực thì áp dụng pháp luật về hôn nhân và
gia đình tại thời điểm xác lập để giải quyết.
2. Đối với vụ việc về hôn nhân và gia
đình do Tòa án thụ lý trước ngày Luật này có hiệu lực mà chưa giải quyết thì áp
dụng thủ tục theo quy định của Luật này.
3. Không áp dụng Luật này để kháng
nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm đối với vụ việc mà Tòa án đã giải
quyết theo quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình trước ngày Luật này
có hiệu lực.
Luật này có hiệu lực thi hành từ ngày
01 tháng 01 năm 2015.
Luật hôn nhân và gia đình số
22/2000/QH10 hết hiệu lực kể từ ngày Luật này có hiệu lực.
Điều 133. Quy định
chi tiết và hướng dẫn thi hành
Chính phủ quy định chi tiết các điều,
khoản được giao trong Luật.
Tòa án nhân dân tối cao chủ trì phối
hợp với Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Bộ Tư pháp hướng dẫn thi hành
các điều, khoản được giao trong Luật.
Luật này đã được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII, kỳ họp thứ 7 thông qua ngày 19 tháng 6 năm 2014.
|
CHỦ TỊCH QUỐC HỘI |
沒有留言:
張貼留言